GIS TRONG QUY HOẠCH VÀ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ

TS. KTS. Lưu Đức Minh - Phó Giám đốc Học viện cán bộ quản lý xây dựng và đô thị - BXD

ThS. Nguyễn Việt Dũng – Viện Quy hoạch môi trường, hạ tầng kỹ thuật đô thị và nông thôn -VIUP

Mở đầu

Công nghệ số nói chung trong đó bao gồm hệ thống thông tin địa lý (GIS) là một công cụ hữu ích trong việc tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu gắn kết với bản đồ, tiến bộ này đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều nước phát triển. Việc áp dụng hệ thống GIS vào lĩnh vực quy hoạch xây dựng sẽ giúp đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thiết kế, là công cụ đắc lực cho các ban, ngành, địa phương trong việc quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch.

Tuy nhiên, cho đến nay GIS Quốc gia còn chưa thực sự là nền tảng ứng dụng cho các ngành bao gồm cả lĩnh vực quy hoạch quản lý đô thị. Công tác lập bản đồ nền số hoá bằng công nghệ GIS đã và đang triển khai nhưng chưa phát huy rõ hiệu quả thực tiễn, rất cần một lộ trình và định lượng khoa học cụ thể cho công tác ứng dụng công nghệ số và GIS, đảm bảo kiểm soát năng lực hiệu quả công tác quy hoạch và quản lý đô thị trong thời gian tới.

Hệ thống thông tin địa lý (viết tắt là GIS) là hệ thống có chức năng thu thập, lưu trữ, thao tác và phân tích các dữ liệu không gian để phục vụ cho các mục đích khác nhau. Hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị liên thông trên nền GIS là hệ thống được thiết kế, xây dựng để quản lý các cơ sở dữ liệu đô thị theo dạng các lớp bản đồ (quy hoạch xây dựng, hạ tầng kỹ thuật, nhà ở, các công trình hạ tầng, dịch vụ xã hội...) được tích hợp trên nền dữ liệu địa lý quốc gia trong hệ quy chiếu và hệ tọa độ quốc gia.

Hệ thống sẽ cho phép hiển thị các lớp thông tin đã được sàng lọc, phân tích, tổng hợp, tính toán theo yêu cầu truy cập thông tin của người sử dụng hệ thống. Các tính năng cơ bản của GIS gồm thu thập dữ liệu, lưu trữ, truy vấn, phân tích, hiển thị và truy xuất dữ liệu.

Việc thiết lập Hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị liên thông trên nền GIS là nền tảng căn bản cung cấp cơ sở dữ liệu để triển khai thực hiện quy hoạch đô thị thông minh, quản lý điều hành đô thị thông minh cũng như tích hợp các tiện ích phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Bối cảnh GIS tại Việt Nam

Những yêu cầu về chuyển đổi số, ứng dụng GIS đã được xác định trong các Nghị quyết và các đề án, chương trình trọng điểm của Đảng và nhà nước có liên quan tới công tác quy hoạch và phát triển đô thị, cụ thể:

Một trong các nhiệm vụ và giải pháp trong Nghị quyết 06-NQ/TW ngày 24/01/2022 của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng, quản lý và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đưa ra yêu cầu xây dựng hệ thống dữ liệu toàn quốc về quy hoạch phát triển đô thị; ứng dụng rộng rãi hệ thống thông tin địa lý (GIS) và công nghệ số, nền tảng số trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị; xây dựng, thúc đẩy đầu tư phát triển hạ tầng số đồng bộ tại các đô thị tương đương với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; tích hợp hệ thống đo lường, cảm biến, các hệ thống dữ liệu, khai thác hiệu quả các nền tảng và ứng dụng công nghệ số vào các hạ tầng thiết yếu tại đô thị; thúc đẩy mô hình quản lý thông minh trong vận hành, quản lý và khai thác hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị, cấu trúc lại hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông; hình thành một số nền tảng số dùng chung cho các đô thị, vùng đô thị.

            Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 01/8/2018 về Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030 đã xác định mục tiêu giai đoạn đến 2025 là thực hiện giai đoạn 1 thí điểm phát triển đô thị thông minh với các nội dung về phát triển hạ tầng dữ liệu không gian đô thị, hợp nhất các dữ liệu đất đai, xây dựng và các dữ liệu khác trên nền GIS tại các đô thị thí điểm giai đoạn 1; thí điểm áp dụng hệ thống hỗ trợ ra quyết định trong quy hoạch đô thị và hệ thống tra cứu thông tin quy hoạch đô thị tại tối thiểu 3 đô thị từ loại II trở lên.

            Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 xác định nhiệm vụ, giải pháp tạo nền móng chuyển đổi số là danh sách các nền tảng số có khả năng triển khai dùng chung rộng khắp trong một số lĩnh vực như thương mại điện tử, nông nghiệp, du lịch, y tế, giáo dục, giao thông, xây dựng, tài nguyên và môi trường, học trực tuyến, nội dung số, dịch vụ kế toán, tài chính doanh nghiệp, đô thị, ngân hàng số và có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam đầu tư phát triển các hệ thống này.

            Quyết định số 1004/QĐ-BXD ngày 31/7/2020 phê duyệt Kế hoạch Chuyển đổi số ngành Xây dựng giai đoạn 2020-2025, định hướng đến năm 2030 xác định Quy hoạch xây dựng, phát triển đô thị và hạ tầng kỹ thuật đô thị là một trong các lĩnh vực ưu tiên chuyển đổi số với việc Ứng dụng Hệ thống thông tin địa lý GIS, Mô hình thông tin công trình BIM, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo trong quản lý vận hành đô thị thông minh.

            Văn bản số 1247/BXD-PTĐT ngày 14/4/2022 của Bộ Xây dựng v/v Hướng dẫn tổ chức thiết lập Hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị liên thông trên nền GIS phục vụ phát triển đô thị thông minh.

Điểm mạnh của GIS so với các công nghệ khác là khả năng gắn kết các thông tin kể cả yếu tố không gian phục vụ phân tích và truy cập theo yêu cầu. GIS là một công nghệ kết hợp nhiều loại hình công nghệ (đồ họa trên máy tính, bản đồ trợ giúp bằng máy tính, viễn thám…), đặc biệt với khả năng phân tích, GIS được coi như là một công cụ trợ giúp đắc lực hiện nay, hệ thống GIS đã và đang được ứng dụng trong nhiều bộ ngành ở các lĩnh vực: quy hoạch xây dựng, sử dụng đất, tài nguyên môi trường, giao thông vận tải, các cơ quan đo đạc bản đồ… và đã được đưa vào chương trình giảng dạy tại một số trường đại học.

Trong công tác quy hoạch xây dựng, công nghệ GIS thời gian gần đây đã được áp dụng tại một số đơn vị trong ngành quy hoạch xây dựng và cơ quan quản lý địa phương như: Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia, Viện Quy hoạch xây dựng Hà Nội, UBND thành phố Hà Nội, Sở Quy hoạch kiến trúc Hà Nội, tại Đà Lạt, Nam Định… và nhiều cơ quan khác. Tuy nhiên, trong thực tế, công tác lập quy hoạch xây dựng hiện nay vẫn chủ yếu thực hiện theo công nghệ truyền thống với phần mềm hỗ trợ thiết kế AutoCad và các phần mềm diễn họa.

Ngoài ra, việc xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị ứng dụng nền tảng GIS đã được một số địa phương tiến hành triển khai trong những năm qua và đã đạt được những kết quả.

Điển hình tại tỉnh Bình Dương, trong thời gian qua đã triển khai các nội dung liên quan đến GIS thông qua Dự án “Xây dựng hệ thống thông tin địa lý và các phần mềm chuyên ngành xây dựng” đã khởi tạo thành công hệ thống thông tin địa lý chuyên ngành xây dựng, hệ thống được cài đặt trên Trung tâm dữ liệu dùng của tỉnh Bình Dương và thực hiện các dịch vụ cung cấp dữ liệu. Người dân, cơ quan và doanh nghiệp có thể truy cập và tìm kiếm thông tin trực tuyến. Các lĩnh vực ứng dụng gồm: Kiến trúc - Quy hoạch; Hạ tầng kỹ thuật và Phát triển đô thị; Nhà ở & Bất động sản; Hoạt động xây dựng; Kinh tế vật liệu xây dựng; Thanh tra. Hệ thống GIS đã cơ bản phục vụ cho chức năng, nhiệm vụ của các phòng trực thuộc Sở, cung cấp các cơ sở dữ liệu về quy hoạch, hạ tầng kỹ thuật, thông tin nhà ở và bất động sản, nhà cao tầng, mỏ khoáng sản và các phản ánh về sai phạm trong lĩnh vực xây dựng... UBND tỉnh Bình Dương cũng đã ban hành Quy chế thu thập, quản lý, khai thác và sử dụng cơ sở dữ liệu ngành Xây dựng làm cơ sở cho các đơn vị có liên quan trong công tác khai thác, sử dụng, cập nhật, quản lý cơ sở dữ liệu dùng chung liên ngành. Trên cơ sở hệ thống dữ liệu đã được thiết lập, hiện nay Bình Dương đã tiếp tục nghiên cứu phát huy các tiềm năng của dữ liệu thông qua các nghiên cứu: ứng dụng công nghệ vệ tinh, viễn thám xây dựng nguồn dữ liệu tham chiếu định hướng cập nhật, số hóa dữ liệu về giao thông, quy hoạch đô thị và đầu tư xây dựng; ứng dụng GIS 3D và các mô hình thành phố 3D trong công tác quản lý đô thị và các hoạt động xây dựng (thí điểm trên địa bàn thành phố Thủ Dầu Một); triển khai áp dụng mô hình cập nhật dữ liệu GIS ngành xây dựng theo quy trình nghiệp vụ; đề xuất và thực hiện thí điểm mô hình quản lý GIS kết hợp BIM trong quản lý đầu tư xây dựng.

Nhìn chung, việc ứng dụng công nghệ thông tin và đặc biệt là hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong công tác quản lý thông tin kiến trúc, quy hoạch hỗ trợ phát triển đô thị còn hạn chế. Do vậy, công tác quản lý dữ liệu ngành hiện tại chưa đạt hiệu quả cao, việc cập nhật, theo dõi các hoạt động, tra cứu thông tin khi cần thiết là một vấn đề khó khăn. Ngoài ra, tại cơ quan Trung ương Bộ Xây dựng cũng chưa có một đơn vị nào có vai trò tích hợp hệ thống cơ sở dữ liệu địa lý thông tin quy hoạch nói riêng hay dữ liệu ngành xây dựng nói chung. Chưa có hướng dẫn hay khung pháp lý hay chuẩn dữ liệu địa lý cho quy hoạch và quản lý phát triển đô thị cũng như cơ chế vận hành về nguồn lực, con người đảm bảo cho hệ thống này được cập nhật thông tin liên tục biến động trong quá trình phát triển đô thị. Thông tin càng cập nhật và trong thời gian dài sẽ tạo nền tảng cơ sở dữ liệu lớn để phát triển, ứng dụng các công cụ phân tích hỗ trợ công tác quy hoạch và quản lý đô thị hiệu quả.

Ứng dụng GIS và công nghệ số trong quy hoạch và phát triển đô thị

Lập quy hoạch và hỗ trợ phân tích

Hệ thống hỗ trợ quyết sách quy hoạch (PSS): được phát triển nâng cao trên nền tảng hạ tầng dữ liệu không gian và các hệ thống ứng dụng cho phép hỗ trợ đưa ra các quyết định về không gian, hỗ trợ chính phủ/các nhà quy hoạch để giải quyết vấn đề trong quá trình lập quy hoạch. Mục đích của hệ thống hỗ trợ PSS là đưa ra các công cụ hỗ trợ một cách khoa học cho công tác lập quy hoạch hướng tới phát triển bền vững. Hệ thống hỗ trợ PSS bao gồm 4 hệ thống khác nhau: hệ thống quản lý dữ liệu, hệ thống lấy ý kiến chuyến gia, hệ thống quản lý mô hình và giao diện sử dụng. Chiến lược môi trường nền được chia thành các nền tảng khác nhau: cơ sở dữ liệu không gian hợp nhất, tiêu chuẩn hóa, và sự hợp tác phát triển hệ thống.

Lựa chọn đất xây dựng đô thị là một nội dung quan trọng trong quy hoạch chung đô thị. Thông qua hệ thống GIS có thể thực hiện các phân tích đa tiêu chí, xây dựng các kịch bản lựa chọn đất xây dựng dựa trên tổng hợp nhiều yếu tố theo trọng số khác nhau: điều kiện tự nhiên, lịch sử hình thành phát triển đô thị, các bản đồ hiện trạng sử dụng đất, hiện trạng kiến trúc cảnh quan, hiện trạng hạ tầng kỹ thuật và hiện trạng môi trường; từ đó các yếu tố được phân tích, đánh giá tổng hợp phục vụ lựa chọn đất xây dựng.

GIS có thể áp dụng xuyên suốt trong quá trình lập đồ án Quy hoạch đô thị. Trong đồ án Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050, GIS đã được áp dụng từ bước nghiên cứu, thu thập số liệu, phân tích đánh giá hiện trạng theo các chuyên đề: điều kiện tự nhiên (địa hình, mô hình số độ cao, thủy hệ…), hệ thống hạ tầng xã hội (giáo dục, y tế, văn hóa, TDTT…), hạ tầng kỹ thuật (giao thông, cấp điện, cấp nước, TNB & VSMT…), sử dụng đất, kinh tế xã hội (dân số, lao động, đói nghèo, phát triển kinh tế…) làm cơ sở để đánh giá tổng hợp các lĩnh vực, xác định các kịch bản phát triển không gian, sử dụng đất theo hướng phát triển bền vững. Hồ sơ quy hoạch sau khi được phê duyệt được chuẩn hóa, chuyển đổi sang cơ sở dữ liệu GIS có khả năng khai thác nhanh phục vụ tốt cho công tác quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch, giảm thiểu việc tra cứu hồ sơ quy hoạch theo phương pháp truyền thống.

Một trong số các dự án hỗ trợ kỹ thuật có ứng dụng hệ thống hỗ trợ quyết sách quy hoạch là dự án Quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam do cơ quan hỗ trợ phát triển Hàn Quốc tài trợ thực hiện trong giai đoạn 2015-2018. Nội dung cơ bản của dự án là đưa ra khái niệm, khung pháp lý về đô thị xanh; thiết lập bộ chỉ tiêu đô thị xanh; xây dựng hệ thống hỗ trợ ra quyết sách quy hoạch (GDSS); và áp dụng thí điểm vào cho quy hoạch khu đô thị Yên Bình (Thái Nguyên) và thành phố Rạch Giá (Kiên Giang). Dựa trên mô hình tính toán phát thải của IPCC, bộ tiêu chí về quy hoạch đô thị xanh (năng lượng, hạ tầng, sử dụng đất…) hệ thống GDSS với nền tảng GIS giúp các nhà quy hoạch phân tích, lựa chọn phương án quy hoạch tối ưu nhằm giảm thiểu phát thải khí nhà kính. Bên cạnh đó, hệ thống GDSS cũng có chức năng theo dõi giám sát việc thực hiện quy hoạch, giảm thiểu khí nhà kính. Tuy nhiên, do hệ thống cơ sở dữ liệu về quy hoạch và đô thị tại Việt Nam còn thiếu và chưa đồng bộ nên việc mở rộng áp dụng còn nhiều thách thức.

Mô hình phân tích ngập lụt đô thị - Mike Urban được phát triển bởi Viện Nghiên cứu tài nguyên nước Đan Mạch. Đây là một công cụ mạnh mẽ để thành lập mô hình tính toán thủy lực dòng chảy cho ngành cấp thoát nước. Công cụ phân tích này có khả năng tích hợp hoàn toàn với các hệ thống GIS, quản lý tài sản khác như ArcGIS, WAMS, WWMS. Công cụ này hỗ trợ cho công tác quy hoạch và thiết kế hệ thống cấp thoát nước cũng như xây dựng các định hướng phát triển không gian và sử dụng đất nhằm giảm thiểu rủi ro ngập lụt đô thị. Mô hình này đã và đang được sử dụng tại nhiều dự án quy hoạch và thiết kế thoát nước tại Việt Nam để giảm thiểu rủi ro ngập lụt, ứng phó biến đổi khí hậu.

Quản lý và giám sát thực hiện quy hoạch

Thông qua hệ thống cơ sở dữ liệu quy hoạch (từ đồ án quy hoạch chung tới phân khu, chi tiết) được xây dựng và chuẩn hóa theo chuẩn GIS, các thông tin quy hoạch được quản lý và cung cấp trên nền bản đồ số. Các nhà quản lý đô thị và đối tượng quan tâm có thể tiếp cận dễ dàng thông qua các nền tảng điện toán đám mây, web-based với các ứng dụng tiện lợi. Hệ thống này giúp công khai thông tin và minh bạch, tiện lợi, tiết kiệm thời gian và kinh phí cho các cơ quan quản lý nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và cộng đồng. Đồng thời hệ thống giúp so sánh thực tế với thông tin quy hoạch được duyệt và gửi phản ánh các vi phạm quy hoạch xây dựng tới các cơ quan quản lý nhà nước bằng thiết bị di động (chụp hình, nhập thông tin vi phạm, vị trí, đề xuất phương án xử lý…).

 

 

 Quản lý hệ thống hạ tầng kỹ thuật

Hiện nay nhiều đơn vị vận hành và cung cấp dịch vụ hạ tầng kỹ thuật đã ứng dụng GIS trong công tác quản lý hệ thống cấp điện, thông tin liên lạc, chiếu sáng, cây xanh, cấp thoát nước... Điều này cho phép phối hợp, cộng tác giữa cơ quan quản lý và các doanh nghiệp quản lý, bảo trì hệ thống hạ tầng kỹ thuật. Thông qua hệ thống phần mềm, thông tin công trình hạ tầng kỹ thuật được quản lý trên bản đồ trực quan giúp phát hiện sự cố để xử lý công việc nhanh chóng, tương tác thời gian thực giữa hiện trường và công tác văn phòng xử lý công việc. Ví dụ, hỗ trợ lập bản đồ công trình thoát nước từ các nguồn dữ liệu hiện có như: số liệu đo GPS, bản vẽ hoàn công/bản đồ, dữ liệu địa lý, excel và cập nhật thực tế từ hiện trường với thông tin quản lý, hình ảnh, video, vị trí (GPS) các công trình thoát nước (ga thăm, ga thu, cửa xả...) tại thực địa bằng ứng dụng trên thiết bị di động phục vụ lập bản đồ công trình thoát nước, theo dõi, ghi nhận nội dung và kết quả của công tác bảo trì, bảo dưỡng đến từng công trình thoát nước, ghi nhận thông tin nhật ký vận hành trạm bơm, theo dõi các điểm ngập lụt trực quan trên bản đồ ngập lụt.

Định hướng phát triển GIS trong công tác quản lý phát triển đô thị tại Việt Nam

Trước sự thay đổi nhanh chóng của môi trường tự nhiên và xã hội, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra thay đổi về tư duy, quá trình thực hiện, triển khai giúp đồ án đạt được những tiêu chí hoàn hảo về chất lượng, hoàn mỹ về thiết kế và đặc biệt trong quản lý quy hoạch xây dựng. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu và nhu cầu ngày càng cao của con người, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ sẽ ảnh hưởng rất lớn tới ngành quy hoạch xây dựng của nước ta, và điển hình là quy hoạch đô thị. Trên thế giới đã hình thành rất nhiều đô thị thông minh, các đô thị ở Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng trên nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội. Đây cũng là thời cơ để ngành quy hoạch xây dựng nâng cao về công nghệ và quản lý, trở nên hiện đại và chuyên nghiệp hơn. Thông qua các giải pháp công nghệ số cũng như trang thiết bị máy móc, các sở ban ngành có thể nâng cao năng lực trong công tác quy hoạch thông qua công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch xây dựng. Để ngành quy hoạch xây dựng phát triển có rất nhiều việc phải làm, trước tiên cần tập trung vào những vấn đề sau:

- Các hồ sơ quy hoạch đô thị trước đây được lập qua nhiều thời kỳ, hệ tọa độ không thống nhất; nền địa hình đo đạc phục vụ quy hoạch giai đoạn trước thiếu chính xác; các đồ án quy hoạch tiếp biên bị sai lệch; những sai lệch này đòi hỏi khi xây dựng cơ sở dữ liệu địa lý đô thị phải song hành triển khai Điều chỉnh cục bộ các quy hoạch đã được phê duyệt để đảm bảo có một hệ thống dữ liệu quy hoạch đồng bộ, thống nhất.

- Hiện nay các văn bản hướng dẫn về quy cách, thể hiện hồ sơ quy hoạch mới hướng dẫn cách thức thể hiện bản vẽ quy hoạch trên phần mềm CAD và sản phẩm là hồ sơ giấy in để ký & đóng dấu chứ không theo bản chất thể hiện phục vụ xây dựng và quản lý cơ sở dữ liệu địa lý. Do vậy, cần có hướng dẫn xây dựng hướng dẫn, khung dữ liệu GIS cho quy hoạch đô thị/xây dựng.

- Một số địa phương đã bước đầu xây dựng các hệ thống quản lý và công khai thông tin đồ án quy hoạch; tuy nhiên không có tính bền vững khi chưa đề xuất các cơ chế vận hành, cập nhật liên tục trên hệ thống. Ngoài ra, năng lực của cán bộ địa phương còn yếu, chậm chuyển biến để thích nghi với hệ thống mới cũng như tính sẵn sàng để tham gia vào công cuộc chuyển đổi số của ngành Xây dựng.

- Công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý cũng như các chương trình đào tạo đại học cần có những chuyển đổi và đưa yêu cầu ứng dụng GIS là điều kiện cơ bản trong công tác quy hoạch.

Việc ứng dụng GIS vào phát triển đô thị cần phải thu hút các nguồn lực từ xã hội không chỉ trong nước mà còn từ bên ngoài để tối ưu hóa được chi phí. Cần xây dựng lộ trình đảm bảo cho việc ứng dụng GIS trong quy hoạch xây dựng khả thi.

Kết luận

Việc nghiên cứu phát triển ứng dụng GIS trong các ngành nói chung và ngành Xây dựng nói riêng cần được xây dựng theo hướng tiếp cận một cách hệ thống, bài bản. Trên cơ sở kế thừa các nghiên cứu tại Việt Nam và hợp tác hỗ trợ phát triển của các tổ chức Quốc tế, trong giai đoạn tới cần thiết phải triển khai các nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng cơ sở dữ liệu Quốc gia và cơ sở dữ liệu ngành xây dựng phục vụ quản lý phát triển đô thị, nghiên cứu ứng dụng GIS trên diện rộng tại Trung ương và địa phương trong công tác quy hoạch, quản lý đô thị đảm bảo kiểm soát năng động và hiệu quả các hoạt động xây dựng đô thị.

Trong xu thế của cuộc cách mạng 4.0 và chuyển đổi số trên thế giới hiện nay, việc ứng dụng và xây dựng cơ sở dữ liệu GIS là vô cùng cấp thiết và mang tính tất yếu tại Việt Nam. Hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị liên thông trên nền GIS là nền tảng căn bản cung cấp cơ sở dữ liệu để triển khai thực hiện quy hoạch đô thị thông minh, quản lý điều hành đô thị thông minh cũng như tích hợp các tiện ích phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Mục tiêu thực hiện thiết lập Hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị liên thông trên nền GIS là tạo nền tảng để các đô thị triển khai các ứng dụng công nghệ tiên tiến vào quản lý phát triển đô thị nhằm thúc đẩy tiến trình xây dựng phát triển đô thị thông minh. Đây cũng là công cụ nâng cao chất lượng, hiệu quả thực thi công vụ đối với các cơ quan quản lý nhà nước; đáp ứng nhu cầu khai thác, chia sẻ thông tin về phát triển đô thị đối với người dân và doanh nghiệp thực hiện việc tra cứu, phản ảnh thông tin, đóng góp ý kiến, tham gia xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu, xây dựng và quản lý đô thị. Từng bước thực hiện xây dựng hệ thống quản lý dữ liệu đô thị kết nối liên thông từ Trung ương tới địa phương.

Tài liệu tham khảo

1.Cẩm Tú (2022). GIS - nền tảng thực hiện quy hoạch đô thị thông minh. Báo Xây dựng điện tử (https://tapchixaydung.vn/gis-nen-tang-thuc-hien-quy-hoach-do-thi-thong-minh-20201224000010566.html)

  1. Bộ Xây dựng (2018). Tài liệu dự án hỗ trợ kỹ thuật quy hoạch đô thị xanh.

  2. Lưu Đức Minh (2022). Ứng dụng GIS và công nghệ số, nền tảng số trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị.

  3. Hán Minh Cường (2022). Ứng dụng GIS hỗ trợ ra quyết định quản lý phát triển đô thị bền vững. (https://moc.gov.vn/vn/tin-tuc/1145/74008/ung-dung-gis-ho-tro-ra-quyet-dinh-quan-ly-phat-trien-do-thi-ben-vung.aspx)

(Nguồn:Tạp chí Quy hoạch xây dựng số (121))
Tin cũ hơn

Tạp chí QHXD

Ebook

Giới thiệu sách

Liên kết website