Phương pháp tiếp cận điều tra kinh tế - xã hội, phục vụ nghiên cứu phát triển vùng ven đô

The peri-urban area is the place that witnessing the transformation of economic structure from agricultural to non-agricultural economy, an intermediary environment for the interaction between rural and urban culture. Therefore, studying the development of peri-urban areas can contribute significantly to the process of establising visions and strategies for the city development. The approach of social-economical surveys for planning and developing peri-urban areas in Vietnam plays a very important role in identifying the current situation, assessing the impacts of urbanization on the economic, cultural and social life in the peripheries so that the spatial problem can be solved in effective and practical way. The article gave general concepts and basic characteristics of peri-urban areas in terms of socio-economic and cultural aspects. Besides, the article identified the socio-economic factors under the impact of the urbanization process in the peri urban areas and introduced the basic principles when making survey plan for that specific areas. These are very important principles so that researchers can establish a framework and detail shedule for their surveys. Keywords: social – economical survey method, peri-urban area, peri-urbanization, social – economical impacts, Vietnam

TS. KTS. Tạ Quỳnh Hoa

Khoa Kiến trúc Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng

THE APPROACH OF SOCIAL-ECONOMICAL SURVEYS FOR PLANNING AND DEVELOPING  PERI-URBAN AREAS

------------------------------------------------------------------------------------

I. Giới thiệu chung - Khái niệm và nhận thức cơ bản về vùng ven đô

Vùng ven đô là nơi chứng kiến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang phi nông nghiệp, là môi trường trung gian cho sự tác động qua lại giữa văn hóa nông thôn và văn hóa đô thị. Vì vậy, nghiên cứu sự phát triển của vùng ven đô có thể đóng góp vào việc định hướng cho sự phát triển đô thị nói chung và thành phố nói riêng [7]. Việc tiếp cận điều tra khảo sát từ góc độ kinh tế - xã hội có vai trò quan trọng trong việc nhận diện các vấn đề hiện trạng, đánh giá các tác động của đô thị hoá đến đời sống kinh tế - văn hoá, xã hội vùng ven, từ đó mới có được bài toán không gian cho những vấn đề đang đặt ra.

Để có những chính sách và những hoạt động can thiệp phù hợp nhằm giải quyết các vấn đề của khu vực ven đô dưới tác động của quá trình đô thị hoá cần phải làm rõ khái niệm về khu vực ven đô và xác định được các đặc trưng cơ bản về kinh tế, văn hoá, xã hội của khu vực này.

Các nhà nghiên cứu phát triển đô thị đã đưa ra một số khái niệm khác nhau về vùng ven đô, có thể tóm tắt các điểm chung nhất như sau: về mặt địa lý ven đô có thể được hiểu là khu vực cận kề với thành phố và tiếp giáp với khu vực nông thôn. Vùng ven đô là vùng rộng lớn bao trùm nhiều địa bàn nằm xung quanh đô thị lõi trung tâm đô thị lớn [1]. Nhìn chung, vùng ven đô là nơi vừa có các hoạt động nông thôn vừa có các hoạt động đô thị, nghĩa là không hoàn toàn là đô thị cũng không thuần tuý là nông thôn và chịu tác động mạnh của đô thị hoá. Nó là sự pha trộn của các hệ thống sinh thái nông nghiệp và đô thị. Bởi vậy, vùng ven đô không tồn tại độc lập mà nằm trong một miền liên thông nông thôn - ven đô - đô thị và tạo thành một hệ thống nông thôn - ven đô - đô thị. Do đó, khó có thể xác định được ranh giới của một vùng ven đô với các tiêu chuẩn cụ thể. Thông thường, người ta xác định ranh giới của vùng ven đô dựa vào các chính sách quy hoạch đô thị và các biện pháp quản lý hành chính [3],[5],[7].

Trong quá trình đô thị hoá, vùng ven đô thường phải chịu tác động mạnh của việc mở rộng không gian đô thị. Ở nhiều nước, chính sách quy hoạch và phát triển đô thị đã biến vùng ven đô thành đô thị và đô thị hoá vùng nông thôn lân cận thành vùng ven đô mới.

Tuy tồn tại trong một hệ thống nông thôn - ven đô - đô thị, nhưng vùng ven đô vẫn có những đặc trưng kinh tế, văn hoá và xã hội riêng của nó. Một số nghiên cứu đã tiến hành với khu vực ven đô như nghiên cứu của Nguyễn Duy Thắng (2009), Bùi Văn Tuấn (2014) và Trịnh Duy Luân (2016) đã nêu ra một số đặc trưng kinh tế, văn hoá xã hội như sau:

- Về kinh tế: Khác với nông thôn, ven đô là nơi không đồng nhất về các hoạt động kinh tế vì nó bao gồm các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và các dịch vụ đô thị. Tỉ trọng nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng thu nhập từ các hoạt động kinh tế của khu vực. Ven đô là nơi chịu tác động mạnh mẽ của quá trình đô thị hoá, sự chuyển đổi mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp diễn ra mạnh mẽ và nhanh chóng, giá trị kinh tế (thông qua giá cả) của đất đai (cả đất ở lẫn đất canh tác) ở vùng ven đô đều đang gia tăng hết sức nhanh chóng, đồng thời vẫn rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư (phi nông nghiệp, bất động sản) [3], [7].

Khu vực ven đô là nơi chứa đựng các mối quan hệ tương tác lẫn nhau về mặt kinh tế của hệ thống nông thôn - ven đô - đô thị, được thể hiện ở chỗ nông thôn và ven đô là nơi cung cấp thường xuyên, lâu dài lương thực, thực phẩm, nguồn nguyên liệu và nguồn lao động cho đô thị. Ngược lại, đô thị tạo ra thị trường để tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp, tạo việc làm và nơi ở cho các dòng di dân từ nông thôn đến đô thị và cung cấp hàng hóa phục vụ cho sản xuất nông nghiệp [6].

- Về xã hội: Nổi bật lên là sự đa dạng hóa của các nhóm xã hội và các bộ phận dân cư mới gia nhập vùng đất ven đô này [3]. Vùng ven đô không thuần nhất về thành phần dân cư vì nó bao gồm nông dân, công nhân, trí thức, chủ doanh nghiệp, tầng lớp trung lưu, người nghèo, thậm chí cả người dân tộc thiểu số. Trình độ dân trí và nhận thức của người dân cao hơn so với nông thôn vì được tiếp xúc với cái hiện đại và được cung cấp thông tin thường xuyên từ nhiều nguồn khác nhau. Quan hệ xã hội đa chiều và phức tạp hơn so với khu vực nông thôn, thường có những xung đột về lợi ích giữa các nhóm dân cư do có sự khác nhau về nhận thức và quyền lợi. Hiện tượng đa dạng hoá nghề nghiệp của cư dân sống tại các khu vực ven đô thể hiện rõ nét. Nhận thức về nghề nghiệp và cơ hội việc làm thay đổi theo từng vùng, tuỳ thuộc tốc độ đô thị hoá [8].

- Về văn hoá: Lối sống của cư dân ven đô là sự pha trộn giữa lối sống nông thôn và lối sống đô thị do sự đa dạng về thành phần dân cư, trong đó lối sống đô thị chi phối mạnh lối sống nông thôn. Thái độ, hành vi và ứng xử giữa các cá nhân với nhau và với môi trường thay đổi theo xu hướng đô thị. Các giá trị, chuẩn mực và văn hoá cũng biến đổi theo hướng đô thị [8],[9].

II. Phương pháp tiếp cận trong điều tra kinh tế - xã hội phục vụ nghiên cứu quy hoạch phát triển khu vực ven đô

2.1 Mục đích của điều tra khảo sát kinh tế - xã hội vùng ven đô

Để quy hoạch phát triển vùng ven đô cần tập trung nghiên cứu quá trình đô thị hoá vùng ven, trong đó nghiên cứu mô hình biến đổi có tính quy luật về các vấn đề kinh tế - xã hội của khu vực vùng ven đô dưới tác động của đô thị hoá hiện nay. Việc nghiên cứu về vùng ven đô có thể cung cấp nhiều thông tin hữu ích hỗ trợ cho các định hướng trong lĩnh vực quy hoạch và hoạch định các chiến lược, tầm nhìn và chính sách quản lý đô thị ở khu vực này. Nghiên cứu sẽ tập trung chủ yếu đến các yếu tố tác động đến đời sống kinh tế - xã hội của người dân.

Mục đích của điều tra kinh tế - xã hội khu vực ven đô là làm rõ được các vấn đề sau: 1) Vai trò của vùng ven đô trong quá trình đô thị hóa đối với sự phát triển nông thôn và đô thị; 2) Các tác động của quá trình đô thị hoá đến sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng ven đô và những vấn đề đặt ra; 3) Những khía cạnh liên quan đến vấn đề quản lý cần được lưu ý trong quá trình phát triển vùng ven đô để nó có thể trở thành một yếu tố tích cực trong sự phát triển đô thị - nông thôn.

Trong các dự án/chương trình nghiên cứu quy hoạch phát triển cho khu vực ven đô cần điều tra kinh tế - xã hội, thường tiến hành 3 loại điều tra tương ứng với tiến trình dự án/chương trình: điều tra cơ bản ban đầu, hay còn gọi là điều tra đầu kỳ (baseline survey), điều tra giữa kỳ (mid-line survey) và điều tra kết thúc/cuối kỳ (endline survey).

Điều tra ban đầu được thực hiện lúc bắt đầu chương trình/dự án nhằm mô tả thực trạng trước khi tiến hành hỗ trợ can thiệp dùng để so sánh sau này khi đánh giá tiến độ. Điều tra giữa kỳ được tiến hành ở thời điểm giữa của chu kỳ để cung cấp cho người quản lý và người ra quyết định các thông tin cần thiết nhằm đánh giá, và điều chỉnh việc thực hiện, các quy trình, chiến lược và sắp xếp tổ chức nếu cần để đạt được các kết quả. Điều tra kết thúc/cuối kỳ được thực hiện vào cuối chu kỳ, cung cấp thông tin cho những nhà ra quyết định và lập kế hoạch để xem xét lại kết quả của chương trình/dự án và rút ra các bài học để hỗ trợ xây dựng hoặc thực hiện một chương trình/ dự án mới.

2.2 Các yếu tố cơ bản cần điều tra

Sơ đồ mối liên hệ giữa yếu tố tác động tạo nên những thay đổi trên khía cạnh kinh tế - xã hội vùng ven đô.

1. Các yếu tố tác động về mặt kinh tế

Tác động có nhận thấy nhất một cách rõ nét nhất của đô thị hóa đến kinh tế của vùng ven đô là việc chuyển mục đích sử dụng đất từ nông nghiệp sang mục đích phi nông nghiệp như xây dựng các khu công nghiệp, khu dân cư, khu dịch vụ và vui chơi giải trí. Cơ cấu kinh tế của vùng ven đô sẽ có nhiều biến đổi theo hướng công nghiệp - dịch vụ, thương mại - nông nghiệp sinh thái. Sự thay đổi quy mô và nội dung hoạt động sản xuất nông nghiệp dẫn tới việc đòi hỏi phải có một cơ cấu ngành nghề thích hợp ở các vùng ven đô. Việc xác định cơ cấu ngành nghề phù hợp cần dựa trên các số liệu liên quan đến: tỉ trọng của các khu vực nông – lâm nghiệp, xây dựng công nghiệp, thương mại dịch vụ trong tổng thu nhập từ các hoạt động kinh tế của vùng; Tỉ trọng đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp hiện nay; Sự gia tăng số lượng doanh nghiệp công nghiệp, thương mại, dịch vụ; Số lượng các ngành nghề mới phát triển…

Quá trình chuyển đổi cấu trúc kinh tế và cơ cấu ngành nghề không chỉ làm thay đổi cấu trúc không gian vật thể của vùng ven đô mà còn làm thay đổi điều kiện sống, sinh kế, quan hệ xã hội, và đặc biệt là làm biến đổi lối sống của cư dân ở các vùng này. Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại khu vực ven đô từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp với việc xây dựng các KCN, cụm tiểu thủ công nghiệp, khu dân cư, khu thương mại dịch vụ, vui chơi giải trí… đã tạo ra các cơ hội cho lao động phi nông nghiệp nhưng cũng gây ra những khó khăn, thách thức cho người nông dân và sản xuất nông nghiệp [7], [10].

Cơ cấu nguồn thu nhập và mức sống cũng thay đổi cùng chiều với sự thay đổi của cơ cấu nghề nghiệp. Ngoài nguồn thu nhập từ nông nghiệp truyền thống, các nguồn khác như từ lương, thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ ngày càng có vai trò quan trọng. Những thay đổi này sẽ khác nhau đối với những nhóm xã hội khác nhau và diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống như: điều kiện nhà ở, điều kiện cơ sở hạ tầng, tiện nghi phục vụ sinh hoạt mà người dân có được nhờ những biến đổi về kinh tế hay sự suy giảm thu nhập do suy giảm/mất đất nông nghiệp, chuyển đổi nghề nghiệp/ mất việc làm, sự cạnh tranh về kinh doanh, thương mại dẫn đến suy giảm thu nhập… Nghiên cứu cần phải chỉ ra được những thay đổi trong cơ cấu nguồn thu nhập, mức sống, tỉ lệ hộ nghèo, hộ thu nhập thấp… trong sự so sánh với các giai đoạn trước đây. Đồng thời, cần phân nhóm thu nhập trong mối quan hệ với nghề nghiệp (VD: nhóm thu nhập thấp thường là các hộ thuần nông hoặc làm thuê, công nhân lao động trong các khu, cụm CN; nhóm thu nhập trung bình là các hộ buôn bán, dịch vụ; nhóm có thu nhập khá là những người hưởng lương nhà nước hoặc chủ các doanh nghiệp nhỏ; nhóm có thu nhập cao là các chủ doanh nghiệp lớn…)

Bên cạnh đó, cần chỉ ra những biến đổi về nhà ở, cơ sở hạ tầng và môi trường sống như phân tích về loại hình, kiến trúc nhà ở, mức độ tiện nghi và các tiện ích trang bị trong gia đình theo hướng hiện đại phù hợp lối sống đô thị, khả năng tiếp cận dịch vụ hạ tầng như: nước sạch, thu gom rác thải, các tiện ích công cộng, cảnh quan môi trường sống an toàn, tiện nghi.

2. Tác động về mặt văn hoá - xã hội

2.1 Thay đổi về dân số và cấu trúc dân cư

Đô thị hoá vùng ven thường đi kèm với dòng nhập cư từ nông thôn đến khu vực ven đô và vào đô thị. Một số lượng lớn lao động nhập cư làm việc tại các khu, cụm CN ven đô, các trung tâm thương mại dịch vụ, các khu dân cư sẽ sống tại các khu vực ven đô. Bên cạnh đó, việc xây dựng các khu đô thị mới, các khu ở mới sẽ gia tăng dân số tại khu vực ven đô và đa dạng hoá cấu trúc dân cư tại đây với các nhóm độ tuổi khác nhau, nhu cầu và mong muốn khác nhau. Việc nghiên cứu biến động dân cư của vùng ven và đặc điểm cấu trúc dân cư sẽ giúp cho các nhà quy hoạch có được các định hướng, chiến lược về mặt không gian cho việc phát triển nhà ở, CSHT kỹ thuật và  CSHT xã hội để đáp ứng nhu cầu của cư dân trong vùng.

2.2 Thay đổi về lối sống và thái độ, hành vi

Đô thị hoá sẽ dẫn đến sự biến đổi của cấu trúc xã hội nông thôn/vùng ven luôn đi liền với biến đổi của hệ thống giá trị, điều này đã được chỉ ra trong công trình nghiên cứu về “Tác động của đô thị hóa đến quá trình nông nghiệp” của Lewis và Maund [4].Theo hai tác giả này, khi biến đổi cấu trúc của xã hội nông thôn, giá trị truyền thống dần dần bị chuyển đổi và một số giá trị mang tính địa phương riêng biệt sẽ dần bị đồng dạng trên diện rộng.

Sự biến đổi lối sống từ nông thôn sang đô thị, từ nông dân sang thị dân làm thay đổi các chuẩn mực văn hoá dẫn đến sự thay đổi thái độ, hành vi và cách ứng xử của mỗi cư dân ven đô trong đời sống gia đình và xã hội. Đô thị hoá còn làm biến đổi các mối quan hệ xã hội của người dân ven đô. Chúng không còn đơn giản là các mối quan hệ họ hàng, cộng đồng làng xã mà là các quan hệ xã hội đa chiều, phức tạp do sự pha trộn nhiều tầng lớp dân cư và sự chuyển đổi các mô hình tổ chức. Các nhóm cộng đồng làng xã sẽ dần được thay thế bằng các cộng đồng mở với các quan hệ bắc cầu. Đây là một trong những đặc trưng của cộng đồng đô thị.

Việc chuyển mục đích sử dụng đất cũng làm nảy sinh những mâu thuẫn xã hội và gia tăng bạo lực do tranh giành đất đai và do đất là nguồn sinh kế chính của nhiều hộ nông dân vùng ven đô. Do đất ở khu vực ven đô ngày càng trở nên khan hiếm, dẫn đến giá đất ở đây ngày càng tăng cao, tạo ra một sức ép tâm lý cho người dân. Hậu quả là người nghèo có thể sẽ bị đẩy ra xa hơn hoặc bị dồn ép vào các khu vực đất đai ít giá trị hay thiếu các dịch vụ công cộng và ô nhiễm môi trường, xã hội trở nên bất ổn nếu việc mâu thuẫn và bạo lực gia tăng.

2.3 Những tác động về văn hóa

Chúng ta đang chứng kiến những đổi thay sâu sắc về văn hóa làng xã trước những tác động của đô thị hóa ở các vùng ven đô. Tuy nhiên, những yếu tố của cấu trúc văn hóa làng xã thay đổi không giống nhau trong quá trình đô thị hóa. Một số yếu tố dần biến mất, trong khi một số yếu tố khác được duy trì hay chuyển hóa để hội nhập với môi trường mới. Ở các nước đang phát triển, các yếu tố văn hoá làng xã ở khu vực ven đô không thật sự rõ nét như ở các vùng nông thôn mà bị pha trộn với văn hoá đô thị và đang biến đổi theo xu hướng đô thị hoá. Vì vậy, cần xem xét và đánh giá đầy đủ các tác động của đô thị hóa đến văn hóa làng xã vùng ven đô, đặc biệt là những biến đổi về chuẩn mực văn hóa, các khuôn mẫu gia đình và lối sống. Những biến đổi đó đã đóng góp như thế nào cho sự phát triển vùng ven đô nói riêng và xã hội nói chung?

2.4 Tác động về môi trường

Môi trường cũng là một vấn đề của quá trình đô thị hoá. Một mặt đô thị hoá làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt đô thị và khu vực ven đô. Mặt khác nó cũng làm suy thoái môi trường sống của con người do sức ép tăng dân số, sự pha trộn lối sống, thiếu đầu tư cho cơ sở hạ tầng, quản lý đô thị yếu kém... Do môi trường sinh thái ven đô có tính lưỡng cư, vừa mang đặc điểm nông nghiệp - nông thôn vừa mang đặc điểm đô thị nên dưới tác động của đô thị hoá hệ sinh thái này sẽ bị phá vỡ. Chẳng hạn, các chất thải công nghiệp và sinh hoạt, bao gồm cả chất thải rắn và lỏng do không được xử lí hoặc xử lí chưa tốt sẽ gây ô nhiễm không khí và nguồn nước dẫn đến suy thoái và ô nhiễm môi trường, làm mất đi hệ sinh thái tự nhiên vốn có của khu vực ven đô. Các hoạt động xây dựng diễn ra rầm rộ tại khu vực ven đô làm gia tăng tốc độ bê tông hoá, giảm diện tích cây xanh, mặt nước và cảnh quan tự nhiên, ảnh hưởng đến chất lượng môi trường sống tại khu vực ven đô.

2.5 Giới thiệu các nguyên tắc cơ bản lập kết hoạch điều tra khảo sát cho khu vực ven đô

Tuỳ theo mục đích, yêu cầu của nghiên cứu và định dạng số liệu cần thu thập mà nhà nghiên cứu lựa chọn phương pháp khảo sát định tính hoặc định lượng cho việc khảo sát khu vực ven đô.

Khảo sát định lượng dùng để kiểm chứng và xác nhận các giả thuyết về các hiện tượng, vấn đề (như đã liệt kê ở trên). Mục tiêu  phân tích của khảo sát định lượng là để lượng hoá sự biến đổi, dự đoán mối liên hệ nhân quả giữa các yếu tố và để mô tả đặc điểm của số đông. Thường sử dụng các phương pháp điều tra có tính cấu trúc cao như phỏng vấn bằng phiếu hỏi, phát phiếu khảo sát trên diện rộng. Các câu hỏi thường là câu hỏi đóng, dữ liệu số có được bằng cách gán giá trị số cho các câu trả lời.

Khảo sát định tính được sử dụng để khám phá các hiện tượng, các vấn đề mà trước đó có thể ta chưa biết. Mục tiêu phân tích của khảo sát định tính là mô tả sự biến đổi, giải thích mối liên hệ của các yếu tố và nhóm các định mức. Các công cụ sử dụng cho khảo sát định tính theo cách linh hoạt hơn, lặp đi lặp lại để tìm ra, phát lộ vấn đề. Các phương pháp điều tra định tính thường là bán cấu trúc như phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm trọng tâm hoặc quan sát thông qua tham gia [2], [11].

Nghiên cứu và lập kế hoạch chi tiết cho việc điều tra khảo sát thu thập thông tin là rất quan trọng trong việc xác định các vấn đề và các yếu tố tác động đến khu vực. Tuy nhiên việc lập kế hoạch và quản lý điều tra khảo sát phải tuân theo rất nhiều bước và chịu nhiều tác động từ các yếu tố khách quan và chủ quan.Với rất nhiều yếu tố (văn hóa, kinh tế, chính trị, tâm lý, xã hội học và tôn giáo) có ảnh hưởng đến việc thực hiện điều tra khảo sát, việc triển khai thực hiện một cuộc điều tra khảo sát không chỉ đòi hỏi về kỹ thuật mà còn yêu cầu về kỹ năng và “nghệ thuật” điều tra thu thập thông tin. Do đó, người quản lý điều tra phải hiểu rõ về mục tiêu của nghiên cứu và có kinh nghiệm trong việc lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm soát tiến trình thực hiện khảo sát.Trong suốt quá trình điều tra khảo sát, các quyết định liên quan đến kỹ thuật và tổ chức triển khai phải kết hợp các yêu cầu về mặt lý thuyết với tính khả thi trong thực tế [2].

Quy trình cơ bản để tổ chức triển khai điều tra khảo sát gồm 6 bước như sau: 1) Chuẩn bị chương trình khảo sát tổng thể; 2) Thiết kế bảng câu hỏi và bảng nhập dữ liệu, tiến hành thí điểm; 3) Nghiên cứu xác định số lượng và loại mẫu điều tra; 4) Lựa chọn đơn vị khảo sát; 5) Đào tạo cán bộ phỏng vấn; 6) Giám sát công việc tại thực địa và quy trình kiểm soát chất lượng dữ liệu (xem Hình 2)

1. Thiết kế tổng thể chương trình điều tra, khảo sát: Các giai đoạn đầu của điều tra khảo sát bao gồm đánh giá các tài liệu thứ cấp và trao đổi với các chuyên gia trong nước giúp khái quát hóa các vấn đề của khu vực. Việc xem xét đánh giá các khảo sát trước đây và thảo luận với các chuyên gia khảo sát địa phương sẽ giúp xác định phương pháp nào hiệu quả nhất, giả thuyết nào đã được thử nghiệm và mục nào phù hợp nhất cho khảo sát cụ thể. Giai đoạn này cũng bao gồm đánh giá cơ sở hạ tầng khảo sát, tìm kiếm các đối tác tiềm năng trong việc thực hiện nghiên cứu thực địa, hỗ trợ bước đầu cho khảo sát và lập kế hoạch thu thập và nhập dữ liệu, báo cáo, thuyết trình và công bố số liệu điều tra.

2. Thiết kế bảng câu hỏi, điều tra thí điểm và nhập dữ liệu: Sau khi các mục tiêu nghiên cứu đã được xác định, tiếp theo là việc chuyển các mục tiêu nghiên cứu thành các câu hỏi có tính khái quát và phương pháp luận đúng đắn. Việc phát triển bảng câu hỏi bắt đầu ngay sau khi kế hoạch chung được thống nhất. Thảo luận nhóm trọng tâm giúp xác định các mối quan tâm và các khu vực điều tra trọng điểm, cũng như đánh giá các câu hỏi và làm rõ các khái niệm. Bảng câu hỏi thường được điều chỉnh, bổ sung sau khi điều tra thí điểm. Khi bảng câu hỏi được hoàn thành cần phải được mã hóa và phát triển biểu mẫu nhập dữ liệu. Biểu mẫu nhập dữ liệu được thiết kế để có một giao diện là bản sao của bảng câu hỏi, bao gồm một số tính năng để kiểm tra chéo đảm bảo tính nhất quán và logic trong các câu trả lời và loại bỏ các câu trả lời không hợp lệ.

Sau khi hoàn thành, mẫu nhập dữ liệu phải được kiểm tra thông qua điều tra thí điểm để chỉnh sửa các câu hỏi điều tra.

3. Nghiên cứu xác định mẫu điều tra: là việc lựa chọn một bộ phận đại diện của một tập hợp các đối tượng (dân cư, các đơn vị, tổ chức…)  để đánh giá các thông số hoặc đặc tính của tập hợp đó. Để có được các mẫu điều tra, cần phải quyết định được một số vấn đề sau: i) xác định các loại mẫu điều tra; ii) phân khu vực điều tra; iii) thiết kế quy trình chọn mẫu và xác định số lượng mẫu điều tra.

Việc chuẩn bị lấy mẫu phải được tiến hành ngay từ đầu của giai đoạn này và phải dựa vào các hướng dẫn cho việc điều tra (VD: cách tính toán số mẫu theo số đối tượng trong tập hợp khi khảo sát định lượng và khảo sát định tính đã được hướng dẫn trong các tài liệu về khảo sát). Cần phải có các trọng số để giúp điều chỉnh trong trường hợp có vấn đề xảy ra hoặc các câu hỏi không có câu trả lời.

4.  Lựa chọn đơn vị thực hiện điều tra: Tùy thuộc vào độ phức tạp của bảng câu hỏi và độ phức tạp của các yếu tố mẫu, việc lựa chọn một đơn vị tiến hành điều tra là một trong những nhiệm vụ khó khăn và quan trọng nhất. Nó ảnh hưởng đến thời gian điều tra và chất lượng dữ liệu được thu thập. Có thể căn cứ vào hồ sơ năng lực và kinh nghiệm các dự án điều tra khảo sát mà đơn vị đã làm trước đó. Ngoài ra, người chịu trách nhiệm quản lý điều tra khảo sát còn phải có năng lực và kinh nghiệm trong việc dự đoán và giải quyết các tình huống có thể xảy ra, có cách thức tiến hành điều tra khảo sát đảm bảo chất lượng, các chiến lược để huy động sự tham gia và sự đồng thuận từ đối tượng được điều tra.

5. Tập huấn điều tra: Trước khi tiến hành điều tra khảo sát, cần tập huấn cán bộ điều tra. Mục đích tập huấn là để điều tra viên nắm rõ mục đích của cuộc điều tra, giải thích nội dung các câu hỏi để các điều tra viên có hiểu biết nhất quán, hướng dẫn thực hiện các cuộc phỏng vấn và tham khảo phương pháp, cách thức để ghi câu trả lời. Người quản lý khảo sát thường là người có nhiều kinh nghiệm và hiểu rõ về mục tiêu phân tích của từng câu hỏi, là người phù hợp nhất nhất để tiến hành tập huấn cho các điều tra viên.

6. Giám sát công việc tại thực địa và quy trình kiểm soát chất lượng dữ liệu: Điều tra thực địa là phần tốn thời gian nhất của cuộc khảo sát. Mặc dù bản thân chu trình phỏng vấn phải được xác định rõ ràng nhưng bảng câu hỏi càng phức tạp thì càng khó ước tính thời gian hoàn thành khảo sát chính xác. Mục đích, nội dung của các câu hỏi càng rõ ràng bao nhiêu thì thời gian điều tra càng rút ngắn bấy nhiêu, đồng thời tăng tính chính xác của dữ liệu. Kỹ năng của điều tra viên và sự chi tiết hợp lý của kế hoạch điều tra cũng là những yếu tố ảnh hưởng đến thời gian và chất lượng điều tra. Việc báo cáo kết quả điều tra đều đặn (hàng tuần) cũng giúp cho người quản lý khảo sát theo dõi hiệu quả tiến trình phỏng vấn như: tỷ lệ hợp tác, tỷ lệ phản hồi, tỷ lệ từ chối và tỷ lệ hoàn thành.

III. Kết luận

Trong khuôn khổ giới  hạn, bài báo đã đề cập đến vai trò, tầm quan trọng của phương pháp tiếp cận điều tra kinh tế - xã hội phục vụ nghiên cứu quy hoạch phát triển vùng ven đô trong bối cảnh Việt Nam. Các quan điểm, khái niệm và đặc trưng kinh tế - văn hoá - xã hội của vùng ven đô tại các nghiên cứu trong khoảng 10 năm trở lại đây đã được tổng hợp và phân tích. Nghiên cứu đã chỉ ra được các yếu tố kinh tế - xã hội biến đổi dưới các tác động của quá trình đô thị hoá vùng ven và giới thiệu các nguyên tắc cơ bản khi lập kết hoạch điều tra khảo sát cho khu vực ven đô. Đây là những nguyên tắc rất quan trọng giúp cho những người làm nghiên cứu có thể định hình khung kế hoạch tiến hành điều tra khảo sát. Tuy nhiên, việc lựa chọn phương pháp khảo sát (định tính hay định lượng) cho việc điều tra, số lượng mẫu điều tra, khu vực điều tra sẽ phụ thuộc vào mục đích, mục tiêu, các giải thuyết và yêu cầu định dạng số liệu thu thập mà trong khuôn khổ bài báo chưa trình bày và sẽ được làm rõ trong các nghiên cứu tiếp theo.

Tài liệu tham khảo

1. Lưu Đức Cường, 2019, Quy hoạch và quản lý phát triển đô thị tại khu vực ven đô, Báo Xây dựng, truy cập: https://baoxaydung.com.vn/ky-4-quy-hoach-va-quan-ly-phat-trien-do-thi-tai-khu-vuc-ven-do-260964.html

2. Giuseppe Iarossi (2006), The Power of Survey Design - A User’s Guide for Managing Surveys, Interpreting Results, and Influencing Respondents [Sức mạnh  của thiết kết điều tra khảo sát – Hướng dẫn người sử dụng để quản lý điều tra, giải thích kết quả và các tác động đến người được khảo sát] ,the World Bank Washington, D.C.

3. Trịnh Duy Luân (2016) Một số chiều cạnh kinh tế - xã hội của vùng ven đô trong quá trình đô thị hóa, Hội thảo “Phát triển nông nghiệp đô thị ven đô, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn cho người nông dân” truy cập: http://kientrucvietnam.org.vn/mot-so-chieu-canh-kinh-te-xa-hoi-cua-vung-ven-do-trong-qua-trinh-do-thi-hoa/

4. Lewis,G.J. và Maund,D.J. (1976). “The Urbanization of the countryside:A framework for analysis” [Đô thị hóa ở nông thôn: một khung phân tích], Human Geography, Vol.58, No.1, pp.17-27.

5. Nguyễn Hữu Minh (2005), Biển đổi kinh tế - xã hội vùng ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hoá, Tạp chí Xã hội học số 1 (89), 2005

6. Simon, David & Mcgregor, (2006). Contemporary perspectives on the peri-urban zones of cities in developing areas. The Peri-Urban Interface; Approaches to sustainable natural and human resource use, [Các quan điểm đương thời về vùng ven đô của các đô thị tại các khu vực đang phát triển. Sách: Giao diện vùng ven. Tiếp cận tới việc sử dụng nguồn tài nguyên tự nhiên và con người một cách bền vững]. Chương 1, Earthscan, trang.1-17

7. Nguyễn Duy Thắng, 2009, Tác động của đô thị hóa đến các mặt kinh tế-xã hội của vùng ven đô và những vấn đề cần quan tâm, Tạp chí Xã hội học, số 1 - 2009, trang 83-86

8. Lã Thị Thuỷ (2008), Những biến đổi nhận thức của cư dân ven đô trong quá trình đô thị hoá, Tạp chí Tâm lý học, số 8 (113), 8-2008

9. Nguyễn Đình Tuấn (2013), Biến đổi văn hóa trong cộng đồng dân cư vùng đô thị hóa - (Nghiên cứu trường hợp tại phường Định Công và xã Minh Khai, Hà Nội), Luận án tiến sĩ nhân học

10. Bùi Văn Tuấn (2014), Tác động của đô thị hóa đến các vấn đề xã hội vùng ven đô Hà Nội hiện nay, nghiên cứu trường hợp xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, 25 năm Việt Nam Học theo định hướng liên ngành , Nhà xuất bản Thế giới, TP.HCM, Việt Nam

11. UNFPA, Vietnam (2008). Các thuật ngữ trong theo dõi, đánh giá, quản lý dựa trên kết quả.

(Nguồn:Tạp chí QHXD số 103+104)
Tin cũ hơn

Tạp chí QHXD

Ebook

Giới thiệu sách

Liên kết website