Đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý phát triển đô thị- Từ thực tiễn đến yêu cầu đổi mới (P1)

PGS.TS.KTS. Lưu Đức Cường*

TS.KTS. Nguyễn Trung Dũng** và các đồng nghiệp

 

Yêu cầu thực tiễn phải đổi mới

Mặc dù đã qua hơn 30 năm chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), hệ thống Quy hoạch đô thị (QHĐT) và phương pháp luận QHĐT nước ta vẫn bảo lưu những đặc điểm căn bản của hệ thống quy hoạch tổng thể có nguồn gốc từ thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp với một hệ thống quy hoạch đô thị theo tầng bậc phức tạp, các sản phẩm quy hoạch khá cứng nhắc (quy hoạch vật thể) và khó đáp ứng được trước các yêu cầu đầu tư thay đổi linh hoạt của thị trường và tốc độ phát triển đô thị nhanh.

Trên thực tế hiện nay,vai trò của khối kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài đang dần thay thế vai trò độc tôn của Nhà nước trong đầu tư phát triển đô thị (PTĐT) như trước đây, đặc biệt là trong các lĩnh vực nhà ở và bất động sản, du lịch, dịch vụ, hạ tầng đô thị. Vai trò của Nhà nước đang chuyển từ chủ thể đầu tư phát triển chính sang vai trò dẫn dắt, tạo ra môi trường thể chế thuận lợi cho các chủ thể khác cùng tham gia phát triển đô thị.

Tuy nhiên, những biến chuyển đó lại được phản ánh rất chậm trong công tác QHĐT. Quy trình phức tạp và sản phẩm cứng nhắc của các đồ án quy hoạch đang tạo ra cản trở lớn cho các nhà đầu tư. Việc các định hướng phát triển được đặt ra trong các đồ án quy hoạch cấp trên (quy hoạch chung (QHC), quy hoạch phân khu (QHPK) thường ít khi phù hợp với các dự án do các chủ đầu tư đề xuất, cho thấy khả năng tiếp cận thị trường của đồ án QHĐT hiện nay bị hạn chế rất cơ bản. Từ đó dẫn đến thực trạng là, để đáp ứng và thu hút các dự án đầu tư, chính quyền địa phương thường xuyên phải tiến hành điều chỉnh cục bộ các quy hoạch cấp trên liên quan (QHC, QHPK) theo một quy trình phức tạp và mất nhiều thời gian, điều này làm ảnh hưởng lớn đến cơ hội đầu tư và chi phí chung của doanh nghiệp.

Trước đây, toàn bộ công tác lập QHĐT là thẩm quyền của các cơ quan nhà nước và chính quyền đô thị. Ngày nay, chính quyền đô thị chỉ tiến hành lập các quy hoạch chung và quy hoạch phân khu; các quy hoạch chi tiết (1/500) được phân cấp cho các nhà đầu tư. Bên cạnh đó, một thực tế đang diễn ra hiện nay là các nhà đầu tư mong muốn được tham gia sâu hơn vào công tác lập các đồ án QHĐT, cụ thể là trong việc lập các đồ án cấp cao hơn như QHC và QHPK, thông qua các hình thức tài trợ kinh phí tổ chức, nghiên cứu lập đồ án… Điều này cho phép cập nhật sớm các nhu cầu của thị trường và nhà đầu tư ngay trong quá trình nghiên cứu định hướng của các QHĐT cấp vĩ mô, để hạn chế việc phải điều chỉnh cục bộ sau này. Tuy nhiên, khung pháp lý cho các hoạt động này còn chưa rõ ràng khiến cho việc thực hiện bị hạn chế. Thực tế này một lần nữa cho thấy vai trò đang ngày một rõ ràng hơn của khối tư nhân trong công tác lập QHĐT và đầu tư phát triển đô thị hiện nay.

Những biến chuyển lớn đó, đặt ra yêu cầu phải đổi mới hệ thống QHĐT và phương pháp luận quy hoạch hiện tại theo hướng gọn nhẹ và linh hoạt hơn về quy trình và sản phẩm để đáp ứng các yêu cầu của nhà đầu tư và thực tiễn phát triển; QHĐT phải chuyển đổi từ một công cụ phân bổ các nguồn lực theo kế hoạch sang công cụ kêu gọi, thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển cho toàn bộ đô thị.

Mặt khác, trong xu thế cải cách hành chính mạnh mẽ và kiểm soát hiệu quả đầu tư công hiện nay, Luật Quy hoạch đã ra đời năm 2017 và đề ra các yêu cầu đổi mới căn bản cho công tác quy hoạch nói chung và QHĐT nói riêng, như: Đảm bảo tính liên tục, tinh gọn của hệ thống quy hoạch, trong đó quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn là một trong 5 loại hình thuộc hệ thống quy hoạch quốc gia; Thay đổi phương pháp quy hoạch đô thị tích hợp các quy hoạch ngành, lĩnh vực và quy hoạch tổng thể KT-XH để đảm bảo quản lý, phát triển đồng bộ; Thống nhất quy định sử dụng đất trong lĩnh vực tài nguyên môi trường và sử dụng đất trong quy hoạch đô thị. Ở cấp độ đô thị, sau khi Luật Quy hoạch có hiệu lực, các quy hoạch chuyên ngành và quy hoạch sản phẩm không còn tồn tại, quy hoạch đô thị trở thành quy hoạch duy nhất dẫn hướng toàn bộ quá trình phát triển đô thị cho các thành phố, thị xã, thị trấn. Do vậy, một yêu cầu tất yếu đề ra là QHĐT phải được điều chỉnh nội dung để trở thành một quy hoạch mang tính tổng thể, tích hợp đa ngành để đủ khả năng định hướng toàn bộ các mặt phát triển của đô thị. Điều này đem lại vai trò và vị thế được khẳng định và nâng cao nhưng đồng thời cũng tạo ra sức ép phải đổi mới, nâng tầm về mặt nội dung và chất lượng của QHĐT.

Nhận diện và định hướng đổi mới một số vấn đề tồn tại trong quy hoạch và phát triển đô thị hiện nay

Đổi mới phương pháp luận quy hoạch và quản lý PTĐT là cả một quá trình với sự khởi đầu từ đổi mới tư duy nhận thức đến thay đổi về quy trình, phương pháp và thể chế thực hiện. Tuy nhiên, để tạo sự chuyển biến rõ nét, cần ưu tiên tập trung nghiên cứu đổi mới mười một nhóm vấn đề thực tiễn đang tạo ra các rào cản trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị hiện nay: 1) Quy trình và phương pháp quy hoạch đô thị; 2) Tính tích hợp trong quy hoạch đô thị; 3) Cơ sở dữ liệu đô thị trong quy hoạch-quản lý PTĐT; 4)Kiểm soát phân vùng phát triển; 5) Hệ thống chỉ tiêu quy hoạch; 6) Kiểm soát phát triển không gian cao tầng; 7) Quy hoạch và quản lý phát triển tại khu vực ven đô; 8) Bảo vệ môi trường và ứng phó với BĐKH trong quy hoạch đô thị; 9) Nguồn lực tài chính trong quy hoạch và PTĐT; 10) Điều chỉnh quy hoạch và 11) Công tác đào tạo ngành QHĐT.

I. Quy trình và phương pháp lập quy hoạch đô thị

1. Các vấn đề tồn tại

- Về Quy trình quy hoạch

Quy trình QHĐT theo tầng bậc 3 bước hiện nay, gồm: quy hoạch chung, quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết, được cho là còn phức tạp, gây tốn kém về thời gian và kinh phí lập để phủ kín quy hoạch. Việc điều chỉnh một quy hoạch cũng rất phức tạp do phải điều chỉnh đồng bộ toàn bộ các quy hoạch liên quan.

Bên cạnh đó, quy trình thực hiện một đồ án QHĐT cũng tồn tại nhiều vấn đề bất cập:

+ Quy trình thực hiện để có được giấy phép đầu tư dự án còn quá dài. Từ lập quy hoạch chung, quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết đến thiết kế đô thị, lập dự án, thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công... nên làm mất cơ hội đầu tư. Cần nghiên cứu rút ngắn quy trình hoặc có hướng dẫn làm song song các bước.

+ Quy trình lập và phê duyệt là rõ ràng và tạo cơ sở để đồ án quy hoạch đạt chất lượng tốt và tính khả thi cao, phù hợp với nhu cầu mục đích sử dụng của cộng đồng. Tuy nhiên việc thực hiện 02 lần lấy ý kiến cộng đồng (Bước nhiệm vụ thiết kế và lập quy hoạch) là rườm rà. Nên rút gọn chỉ tổ chức lấy ý kiến cộng đồng ở bước lập quy hoạch nhằm rút ngắn thời gian thực hiện.

+ Bất cập trong việc xin ý kiến cộng đồng. Chưa rõ đối tượng xin ý kiến, hình thức xin ý kiến. Nên giới hạn đối tượng xin ý kiến ở các loại QHĐT khác nhau. Thời gian xin ý kiến từ 30-45 ngày đối với QHC là dài. Chỉ nên lấy ý kiến đến mức độ QHPK.Việc lấy ý kiến cộng đồng ở giai đoạn lập nhiệm vụ quy hoạch còn kém hiệu quả, do ở giai đoạn này chưa có nội dung cụ thể để dân góp ý được. Đối với các dự án xây dựng mới hoàn toàn trên các khu đất chuyển đổi từ đất nông nghiệp chưa có hướng dẫn cụ thể lấy ý kiến cộng đồng là những đối tượng nào.

+ Quy hoạch chi tiết 1/500 không nhất thiết phải lập NVQH.

+ Quy định các chỉ tiêu quá cứng trong nội dung lập nhiệm vụ quy hoạch làm bó cứng nội dung lập quy hoạch.

+ Đối với quy hoạch thị trấn, đô thị loại 5 nên lập QHPK thay vì quy hoạch chung như hiện nay.

+ Quy hoạch khu công nghiệp không nhất thiết phải lập quy hoạch chi tiết 1/500.

+ Trong Quy trình lập QHĐT, Quy hoạch phân khu khó áp dụng vào quản lý xây dựng theo quy hoạch mà phải lập quy hoạch chi tiết 1/500. Hơn nữa trong đồ án quy hoạch chung cũng có phân khu nên không nhất thiết phải lập quy hoạch phân khu mà nên tích hợp luôn vào đồ án quy hoạch chung, sau đó lập quy hoạch chi tiết.

+ Trong quy trình quy hoạch đô thị còn thiếu nội dung về quy hoạch cây xanh và chiếu sáng cảnh quan đô thị.

+ Điều chỉnh nhiều lần (do đánh giá hiện trạng chưa tốt, các ý tưởng đưa ra thiếu tính thực tế, có nhiều thay đổi về kinh tế xã hội...), mỗi lần điều chỉnh lại làm lại quy trình từ đầu dẫn đến mất nhiều thời gian và kinh phí. Nên nghiên cứu xây dựng quy trình điều chỉnh quy hoạch cho hiệu quả.

- Về Phương pháp lập quy hoạch:

+ Phương pháp lập quy hoạch của Việt Nam còn nhiều khác biệt với phương pháp lập quy hoạch của các nước trong khu vực, chủ yếu tính toán quy mô theo sức chứa nên đã lạc hậu.

+ Tính tích hợp với các loại hình quy hoạch ngành khác còn hạn chế. Việc sử dụng kết quả của các quy hoạch ngành khác vào quy hoạch đô thị còn hạn chế.

+ Thiếu các công cụ trong việc đánh giá hiện trạng và dự báo phát triển.Thiếu tính chiến lược và toàn diện trong nghiên cứu.

+ Tình trạng thường xuyên tại các đô thị Việt Nam là các loại quy hoạch ngành được thực hiện song song, do đó việc cập nhật và lồng ghép trong các loại quy hoạch chưa được thống nhất. Ví dụ như Quy hoạch sử dụng đất được lập trên cơ sở Luật Đất đai, Quy hoạch đô thị được lập trên cơ sở Luật Quy hoạch đô thị và Luật Xây dựng, dẫn đến các định hướng chung của 02 loại quy hoạch này thường có mâu thuẫn (Ví dụ: Quy hoạch đô thị định hướng 01 tuyến đường, bố trí quỹ đất công cộng chẳng hạn... Quy hoạch sử dụng đất lại không định hướng là đất công cộng, hay xác định mục đích khác...).

+ Phương pháp lập quy hoạch mang nhiều cảm tính, làm theo chủ trương, chỉ đạo, thiếu công cụ lập quy hoạch mang tính khoa học, logic.

+ Việc lập quy hoạch chỉ đơn thuần về không gian, sử dụng đất, chưa nghiên cứu những tác động đến đời sống xã hội nhất là tầng lớp thu thập thấp. Vì vậy, trong phương pháp lập quy hoạch cần có đánh giá tác động xã hội khi đồ án đi vào thực tiễn.

+ Kinh tế đô thị chưa được nghiên cứu, tính toán trong đồ án quy hoạch đô thị.

+ Dự báo phát triển và cấu trúc đô thị là những nội dung quan trọng của đồ án. Hiện nay việc dự báo chưa tốt, cấu trúc đô thị chưa được nghiên cứu sâu. Cần có những hướng dẫn về kỹ năng, kiến thức về dự báo.

+ Các đồ án quy hoạch đô thị hiện nay được lập còn thiếu công tác điều tra xã hội học, nhất là đồ án quy hoạch chung.

+ Việc quy định chặt số người trong khu vực (thành phố) nhưng chưa kiểm soát chặt được vấn đề này và trở thành bài toán khó khăn trong quy hoạch đô thị. Hàng loạt các vấn đề liên quan đến dân số cần giải quyết như tắc đường, cải tạo chung cư cũ, quá tải hạ tầng xã hội… cần một phương pháp mới về lập quy hoạch mà không phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động của dân số đô thị.

+ Vấn đề dự báo thường khác so với thực tế. Các dữ liệu, số liệu dùng trong nghiên cứu cần được tổng hợp, phân tích mang tính khoa học. Việc xác định nguồn lực còn hạn chế, thiếu luận cứ để xây dựng tài chính quy hoạch.

2. Định hướng đổi mới

- Rút ngắn quy trình lập quy hoạch: Quy trình các bước linh hoạt theo từng đô thị: Thực hiện phương pháp lồng ghép, căn cứ vào vấn đề cần giải quyết của từng đô thị, yêu cầu của mỗi đô thị để xây dựng quy trình các bước lập quy hoạch để giải quyết vấn đề đặt ra. Như vậy, quy trình các bước triển khai lập quy hoạch sẽ khác nhau theo từng đô thị gắn với phương pháp triển khai của đơn vị tư vấn được lựa chọn. Quy định pháp luật cần quy định các bước chính phải thực hiện và quy trình thẩm định cuối cùng đối với sản phẩm quy hoạch cuối cùng của đồ án để đảm bảo chất lượng chung.

Quy trình các bước mở và bổ sung để tạo điều kiện tham gia đầy đủ của các bên liên quan như: tham vấn chuyên gia, lấy ý kiến cộng đồng. Quy trình quy hoạch có sự tham gia sẽ giúp cho việc lựa chọn giải pháp quy hoạch phù hợp với cộng đồng, nâng cao khả năng giám sát quy hoạch.

Quy trình lập và thực hiện quy hoạch phù hợp với bối cảnh xã hội và thể chế, chính quyền đô thị theo từng giai đoạn. Đổi mới phương pháp luận quy hoạch đô thị cần phải dựa trên hệ thống pháp luật hiện hành, tính khả thi và đồng bộ với hệ thống pháp luật có liên quan, hệ thống thể chế hiện có để đảm bảo khả thi trong áp dụng quy hoạch và là cơ sở quan trọng để thực hiện quy hoạch.

+ Đối với QHC đô thị: Các đô thị đặc biệt: Giữ nguyên quy trình cũ; Các đô thị từ loại I trở xuống: Lồng ghép nội dung Quy hoạch phân khu vào Quy hoạch chung

+ Đối với QHPK: Quy hoạch phân khu được lập cho các khu vực đã được xác định trong quy hoạch chung, nhưng có thể không bắt buộc áp dụng với mọi đô thị và không bắt buộc với mọi khu vực trong đô thị. Đối với các khu vực hiện hữu tương đối ổn định về hệ thống đường giao thông, các khu vực tương đối biệt lập hoặc các khu vực đã có hoặc đã được định hướng tương đối rõ về các kết nối về hạ tầng kỹ thuật, cũng như không gian phát triển và quy hoạch chung đã có các định hướng đủ rõ để quản lý phát triển các khu vực đó thì có thể triển khai ngay quy hoạch chi tiết. Nhiệm vụ quy hoạch phân khu cần phân tích rõ lý do và sự cần thiết lập quy hoạch.

Nếu triển khai ngay quy hoạch chi tiết, thì trong nội dung quy hoạch cần phân tích và có các giải pháp đảm bảo sự kết nối của Khu vực lập quy hoạch chi tiết với các khu vực lân cận về hạ tầng, cảnh quan – sinh thái, không gian… Nếu trong quá trình xét duyệt quy hoạch chi tiết, xét thấy các kết nối này không đủ mạch lạc và không đảm bảo cơ sở pháp lý, thì cần nghiên cứu bổ sung quy hoạch phân khu bao trùm lên và mở rộng hơn so với khu vực lập quy hoạch chi tiết và phê duyệt đồng thời quy hoạch phân khu và quy hoạch chi tiết, hoặc phê duyệt quy hoạch phân khu trước, rồi nghiên cứu quy hoạch chi tiết sâu hơn, sau đó phê duyệt quy hoạch chi tiết.

- Đổi mới nội dung quy hoạch:

+ Nội dung quy hoạch chung đô thị được đề xuất đổi mới theo hướng quy hoạch tổng thể cấu trúc chiến lược, trong đó tích hợp các nội dung trước đây được lập quy hoạch riêng, như: các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (bao gồm các ngành: nông - lâm - ngư nghiệp, du lịch, công nghiệp - TTCN, dịch vụ…), định hướng phát triển giao thông, sử dụng đất, tài nguyên, môi trường, hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội. Nội dung QHPK được tích hợp vào QHC đối với các đô thị từ loại I trở xuống.

+ QHPK: Thể hiện rõ khung hạ tầng chính đô thị bao gồm: Khung giao thông chính và các công trình hạ tầng đầu mối

+ QHCT có thể lồng ghép nội dung Thiết kế đô thị

- Đổi mới sản phẩm quy hoạch đô thị: Sản phẩm quy hoạch được bổ sung, điều chỉnh để phù hợp với quy trình quy hoạch đổi mới (tích hợp QHC và QHPK) và nội dung hợp nhất, đa ngành (Lồng ghép các nội dung các quy hoạch ngành, lĩnh vực khác): 

II. Tính tích hợp trong quy hoạch đô thị

1. Các vấn đề tồn tại:

            Hệ thống quy hoạch ở Việt Nam trước năm 2017 gồm 3 nhóm:

+ Nhóm I: Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, gồm: (i) QHTT phát triển kinh tế - xã hội vùng, lãnh thổ; (ii) Quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực; (iii) Quy hoạch sản phẩm.

+ Nhóm II: Quy hoạch xây dựng, gồm: (i) Quy hoạch xây dựng vùng, (ii) Quy hoạch xây dựng các khu chức năng đặc thù, (iii) Quy hoạch đô thị, (iv) Quy hoạch xây dựng nông thôn.

+ Nhóm III: Quy hoạch sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản và quy hoạch bảo vệ môi trường.

            Hệ thống Quy hoạch quốc gia được quy định tại Điều 5 Luật Quy hoạch 2017 gồm:

1. Quy hoạch cấp quốc gia, gồm: Quy hoạch tổng thể quốc gia; Quy hoạch không gian biển quốc gia; Quy hoạch sử dụng đất quốc gia; Quy hoạch ngành quốc gia.

2. Quy hoạch vùng

3. Quy hoạch tỉnh

4. Quy hoạch đô thị, quy hoạch nông thôn

5. Quy hoạch đơn vị hành chính – kinh tế đặc biệt

            (1) Hệ thống QHQG trước năm 2017 còn mang tính phân lập, thiếu sự phối hợp hài hòa và sự lồng ghép khách quan giữa các loại quy hoạch nên không phát huy được tính khá thi, hiệu quả và tác dụng.

            (2) Hệ thống QHQG được thiết lập theo luật quy hoạch 2017 là tiền đề để xây dựng cơ chế phối hợp giữa các loại quy hoạch, tạo điều kiện để đổi mới thể chế QHĐT dựa trên cơ chế phối hợp, lồng ghép với các loại quy hoạch lãnh thổ và ngành.

            (3) Luật quy hoạch ra đời đã quy định hủy bỏ quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội và hệ thống các quy hoạch ngành cấp vùng và tỉnh, giữ lại và có điều chỉnh hệ thống quy hoạch ngành cấp quốc gia gồm 39 ngành. Đây là cơ hội để Nghiên cứu đổi mới công tác lập quy hoạch đô thị, trong đó việc tích hợp đa ngành sẽ bao gồm: (1) Quy hoạch đô thị đảm nhận nhiệm vụ của quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành cấp địa phương và (2) Quy hoạch đô thị cụ thể hóa quy hoạch ngành quốc gia theo quy trình đổi mới, đảm bảo đánh giá được tổng hợp nhu cầu của các ngành, xác định được yếu tố nổi trội và lĩnh vực ưu tiên, tạo được cơ chế tham gia đa ngành để cùng nhau xây dựng mục tiêu, tầm nhìn, ý tưởng chung cũng như cam kết thực hiện của các bên liên quan.

2. Định hướng đổi mới

Các nguyên tắc phối hợp, lồng ghép giữa quy hoạch đô thị và quy hoạch ngành

Cập nhật xu hướng phát triển công tác quy hoạch của thế giới trong nền kinh tế thị trường theo xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.

Tạo được sự đồng thuận cao.

Phù hợp với điều kiện thực tiễn của Việt Nam trong thời kỳ chuyển đổi từ một nước đang phát triển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đảm bảo tính khả thi và tính hiệu quả cao nhất trong điều kiện thực tiễn.

Ở cấp quốc gia: Quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn quốc gia làm nền tảng trên cơ sở tuân thủ quy hoạch Tổng thể Quốc gia.

  • Ở cấp tỉnh: Lấy hợp phần QHXD trong quy hoạch Tỉnh làm nền tảng
  • Ở cấp đô thị: Lấy QHĐT làm nền tảng duy nhất để lồng ghép, tích hợp trên cơ sở tuân thủ quy hoạch cấp Tỉnh, Vùng và Quốc gia.

Giải pháp lồng ghép

- Lồng ghép trong các bước lập quy hoạch: Việc tích hợp đa ngành không nhất thiết phải nằm trên toàn bộ cả 13 bước triển khai mà có thể thực hiện ở các bước chính theo từng giai đoạn.

Đề xuất nội dung, mức độ lồng ghép Chiến lược phát triển đô thị (CDS) trong lập QHĐT

Cấu trúc quy trình lồng ghép được kế thừa từ kết quả đề xuất của dự án xây dựng năng lực lập quy hoạch và quản lý đô thị (CUPCUP) do VIUP và JICA thực hiện năm 2012, trong đó đã làm rõ quy trình và các nội dung cần thực hiện theo từng bước đảm bảo tính tham gia của cộng đồng và các bên liên quan, xây dựng diễn đàn trao đổi và triển khai các ý tưởng phát triển ”mới” (tính linh hoạt), huy động nguồn lực xã hội thông qua xác định các dự án chiến lược và cam kết thực hiện từ các đối tác.

+ Lồng ghép cơ chế tham gia của các bên trong đánh giá hiện trạng và xác định các tiền đề phát triển đô thị

+ Lồng ghép chiến lược phát triển trong định hướng phát triển đô thị

+ Lồng ghép các khu vực, dự án ưu tiên với các nguồn cấp vốn khả thi và năng lực nội tại của các cơ quan địa phương

+ Lồng ghép cơ chế giám sát và đánh giá thực hiện quy hoạch cho các mục tiêu quản lý đô thị theo Đồ án Quy hoạch chung đô thị

Đề xuất nội dung, mức độ lồng ghép một số ngành trong lập QHĐT

Các nội dung của QHĐT đã được đề cập đến trong Luật QHĐT và các văn bản dưới Luật, do vậy đề xuất các nội dung lồng ghép đa ngành trong lập QHĐT đề xuất dựa trên “các ngành các hợp phần có xuất hiện trong Luật QHĐT” đồng thời đề xuất các nguyên tắc và bổ sung các yếu tố trong từng ngành, từng hợp phần nhằm nhanh chóng cụ thể hóa chiến lược ngành và tránh chồng chéo mâu thuẫn trong việc ra quyết định và cụ thể hóa ngành trong phát triển đô thị. Các nội dung lồng ghép trong từng lĩnh vực chính bao gồm:

+ Các quy hoạch sử dụng đất – Ngành TNMT

+ Các quy hoạch giao thông – Ngành Giao thông vận tải

+ Các quy hoạch bảo tồn và phát huy giá trị di sản – Ngành Văn hóa

+ Các quy hoạch liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội

Đề xuất phương pháp-công cụ hỗ trợ lồng ghép đa ngành trong lập QHĐT

+ Thu thập và thống nhất hóa cơ sở dữ liệu-thống kê

+ Chuyên gia và sự tham gia cộng đồng

+ Lượng hóa các mục tiêu phát triển và xây dựng bộ chỉ số mục tiêu

+ Áp dụng công nghệ thông tin đặc biệt là mô hình số không gian

+ Đổi mới các chính sách, pháp lý để thuận lợi cho nghiên cứu đa ngành

III. Hệ thống chỉ tiêu quy hoạch đô thị

1. Tồn tại

Chỉ tiêu quy hoạch là các thông số kỹ thuật nhằm thể hiện các mục tiêu, chiến lược, định hướng quy hoạch nhằm phục vụ cho công tác quản lý phát triển đô thị. Hệ thống các chỉ tiêu quy hoạch đã được quy định tại các Luật, nghị định, thông tư, quy chuẩn, tiêu chuẩn và được xác định trong hồ sơ đồ án quy hoạch (thuyết minh, bản vẽ, quy định quản lý theo đồ án quy hoạch…) và các công cụ quản lý đô thị khác (thiết kế đô thị, quy chế quản lý quy hoạch kiến trúc…). Các chỉ tiêu quy hoạch hiện nay đã đáp ứng phần nào nhu cầu quản lý phát triển đô thị tuy nhiên vẫn còn những hạn chế, cụ thể như sau:

(1) Chưa thực sự thống nhất giữa các quy định mang tính pháp quy (Luật, nghị định, thông tư, quy chuẩn, tiêu chuẩn…) về các chỉ tiêu quy hoạch (đặc biệt là các chỉ tiêu về sử dụng đất giữa các hệ thống luật khác nhau như: Luật Xây dựng, Luật Quy hoạch đô thị với Luật Đất đai...).

(2) Chức năng sử dụng đất đô thị không phải cố định mà luôn thay đổi để đảm bảo đạt được lợi ích kinh tế - xã hội cao nhất, bên cạnh đó chức năng sử dụng đất cũng không còn mang tính đơn nhất và có sự giao thoa các chức năng, tạo ra khái niệm đất hỗn hợp nhằm đạt được hiệu quả cao nhất về sử dụng mà không gây ra các tác động xấu trong bản thân việc tích hợp các chức năng sử dụng đất trong một lô, thửa cũng như cho cả khu vực. Tuy nhiên hiện nay khái niệm về đất hỗn hợp còn chưa rõ ràng và còn tạo ra nhiều kẽ hở trong công tác quản lý phát triển đô thị, dẫn đến các hậu quả về môi trường cũng như các vấn đề đô thị khác (ùn tắc, an toàn đô thị, quá tải hạ tầng…), trong khi đó lại vẫn có sự cứng nhắc trong công tác quản lý đô thị, không tạo ra sự linh hoạt trong việc chuyển đổi mục đích, chức năng sử dụng đất. Đồng thời việc quy định cứng các chỉ tiêu quy hoạch sẽ không tạo điều kiện cho sự phát triển đô thị.

(3) Chưa thống nhất về các chỉ tiêu sử dụng đất cho các mục đích quản lý khác nhau: giữa quản lý lập quy hoạch và quản lý phát triển đô thị, giữa quy hoạch đô thị và phân loại đô thị… Chưa thực sự thống nhất về hệ thống chỉ tiêu quy hoạch tại các vùng miền, địa phương (khái niệm, số lượng, giá trị và phương pháp quản lý). Một số khái niệm chưa có định nghĩa rõ ràng dẫn đến việc cách hiểu chưa thống nhất giữa các ngành, địa phương (đất xây dựng đô thị, đất đơn vị ở, đất khu ở, đất ở, đất cây xanh và đất cây xanh sử dụng công cộng…). Một số khái niệm mặc dù chỉ có phạm vi áp dụng hạn chế theo cấp độ quy hoạch, tuy nhiên chưa có quy định cụ thể về phạm vi áp dụng nên dẫn đến việc tham chiếu, áp dụng sai: như khái niệm về đất đơn vị ở trung bình toàn đô thị… Bên cạnh đó là sự liên quan mật thiết giữa các chỉ tiêu sử dụng đất với mục đích sử dụng đất (ở, thương mại, dịch vụ, văn phòng… hay hỗn hợp nhiều mục đích sử dụng đất) cũng như cách thức quản lý không gian của khu đất (hệ số sử dụng đất, mật độ xây dựng, tầng cao – chiều cao xây dựng…) dẫn đến quy định không hoàn chỉnh sẽ tạo khe hở trong công tác quản lý hoặc dẫn đến những yêu cầu chồng chéo, mâu thuẫn.

(4) Thiếu các chỉ tiêu về ngưỡng phát triển (đô thị, phân vùng, dự án …), các chỉ tiêu nhằm xác định ranh giới phát triển, khu vực hạn chế, khu vực kiểm soát và ngưỡng chịu tải… Thiếu chỉ tiêu quy hoạch cho một số đối tượng như: khu vực phát triển cao tầng, siêu cao tầng, khu vực tái thiết, khu vực đô thị cũ, khu vực nông thôn đô thị hóa và các khu vực đặc biệt khác…). Thiếu các chỉ tiêu về công trình hạ tầng xã hội có tính phúc lợi công cộng (đảm bảo tiếp cận an toàn, dễ dàng về các mặt: giao thông, khả năng chi trả…), công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị (sử dụng chung kết cấu hạ tầng, xã hội hóa…). Đang có sự lẫn lộn giữa công trình hạ tầng xã hội và công trình hạ tầng xã hội có tính phúc lợi công cộng cũng như việc không tính đến sự phân bổ hợp lý theo không gian dẫn đến tình trạng tổng chỉ tiêu thừa nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu của các tầng lớp dân cư đô thị.

(5) Về chỉ tiêu đất dân dụng: QCXDVN 2008 bỏ quy định chỉ tiêu đối với đất dân dụng dẫn đến các đồ án quy hoạch tính toán đất đai dân dụng rất lớn, lên đến 150-160m2/người, gây lãng phí tài nguyên đất, tốn kém trong đầu tư hạ tầng và tổ chức các dịch vụ công cộng không hiệu quả.

Bảng 1: Một số ví dụ về chỉ tiêu đất dân dụng tại các đồ án QHC:

TT

Đồ án

Hiện trạng (m2/ng)

Quy hoạch (m2/ng)

1

Phủ Lý

85

178

2

Quy Nhơn

75

163

 

2. Định hướng đổi mới

(1) Về hệ thống chỉ tiêu đất trong QHĐT: Để đảm bảo công tác quản lý phát triển đô thị, cần hệ thống hóa các khái niệm đất đai trong đô thị theo định hướng quản lý phát triển đô thị. Trong đó các nội dung cần quản lý bằng chỉ tiêu là đất dân dụng; các thành phần trong đất dân dụng (đất khu ở, đất công trình dịch vụ, công cộng đô thị cơ bản, đất cây xanh đô thị...), các thành phần trong đất khu ở (đất ở, đất công trình dịch vụ, công cộng khu ở, đất cây xanh khu ở...). Bên cạnh đó cần lưu ý một loại hình đất phát sinh trong quá trình phát triển đô thị là loại hình hỗn hợp các chức năng đô thị trong từng công trình, từng lô đất và từng khu đất quy hoạch...

(2) Về chỉ tiêu đất dân dụng

- Theo các lý thuyết quy hoạch trên thế giới, mật độ đô thị tốt để đô thị hoạt động hiệu quả là 200 người/ha, nghĩa là khoảng 50m2/người – là chỉ tiêu cho đô thị tương đối «nén».

- Do vậy cần xác định quy định chỉ tiêu đất dân dụng không phân biệt loại đô thị nhằm tiết kiệm đất đai và đảm bảo đô thị hoạt động hiệu quả.

- Đồng thời đây cũng là một chỉ tiêu cần được bổ sung vào yêu cầu thống kê hàng năm để xây dựng cơ sở dữ liệu về sử dụng đất đô thị .

(3)  Về chỉ tiêu đất khu ở, đất ở:

Theo QC 01:2008, chỉ tiêu đất đơn vị tối thiểu là 8m2/người và chỉ tiêu đất đơn vị ở trung bình toàn đô thị không lớn hơn 50m2/người; Cũng theo QC 01:2008, diện tích đất công trình công cộng cấp đơn vị ở tối thiểu khoảng 3m2/người và đất cây xanh trong đơn vị ở tối thiểu phải đạt 2m2/người, ngoài ra là yêu cầu diện tích cho giao thông. Như vậy đất ở còn lại là quá ít, không hợp lý. Trong khi theo chiến lược phát triển nhà ở quốc gia, chỉ tiêu sàn nhà ở đô thị là 26m2/ người, vậy chỉ tiêu đất đơn vị ở 8m2/người là bất hợp lý. Do vậy cần điều chỉnh chỉ tiêu đất đơn vị ở cho phù hợp với thực tế và các chiến lược phát triển quốc gia.

-  Đơn vị ở là một khái niệm khá phổ biến trên thế giới khi tổ chức các mô hình ở, tuy nhiên khi vận dụng vào Việt Nam để tạo ra chỉ tiêu về đất đai với khái niệm đất đơn vị ở dẫn đến việc cố định duy nhất một mô hình ở, do vậy không nên quy định chỉ tiêu cho đất đơn vị ở mà thay bằng khái niệm đất khu ở (cho cấp QHC, QHPK) và đất ở (cho cấp QHCT).

(4) Công trình hạ tầng xã hội có tính phúc lợi công cộng (đảm bảo tiếp cận an toàn, dễ dàng về các mặt: giao thông, khả năng chi trả…).

Cụ thể về chỉ tiêu đất trường học:

+ Thông tư 47/2012/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định tiêu chuẩn diện tích cho trường chuẩn quốc gia tối thiểu là 10m2/hs (đối với khu vực nông thôn) và tối thiểu là 6m2/hs (đối với khu vực thành thị).

+ TCVN 8793:2011 Trường tiểu học - Yêu cầu thiết kế quy định: Khu vực thành phố, thị xã: 6 m2/học sinh; Khu vực nông thôn, miền núi: 10 m2/học sinh.

+ TCVN 8794:2011 Trường trung học - Yêu cầu thiết kế quy định: Khu vực nông thôn, miền núi: 10 m2/học sinh. Khu vực thành phố, thị xã: 6 m2/học sinh.

+ Chỉ tiêu đất trường học phải thay đổi để phù hợp với các văn bản đã ban hành, sẽ kiến nghị sửa đổi các chỉ tiêu của tiêu chuẩn, cần cao hơn chỉ tiêu này, để đảm bảo yêu cầu quy mô diện tích cho trường học hoạt động tốt.

Về các công trình dịch vụ, công cộng khác:

+ Chỉ nên quy định cho những công trình dịch vụ, công cộng cơ bản bắt buộc các đô thị, các đơn vị ở phải có cơ sở y tế công lập, công trình văn hóa - thể thao thông dụng phục vụ nhu cầu của người dân trong đơn vị ở, trong đô thị; có chợ truyền thống, trung tâm thương mại phục vụ nhu cầu thường xuyên của người dân trong đơn vị ở, trong đô thị...

+ Các công trình khác, đã được quy định ở QCXDVN 01:2008 như rạp xiếc, bảo tàng, nhà hát, triển lãm nên do đặc thù từng đô thị để xác định.

(5) Về chỉ tiêu đất cây xanh:

- Chỉ tiêu đất cây xanh theo cấp đô thị và cấp đơn vị ở không gặp nhiểu vướng mắc, trừ các khu vực đô thị cũ.

- Tuy nhiên quy định hiện nay chưa làm rõ được việc đảm bảo các quy hoạch phải đưa ra diện tích cụ thể cho phần không gian công cộng, sân chơi cho dân cư, tránh trường hợp chỉ là cây xanh, thảm cỏ, không có không gian cho các hoạt động vui chơi của trẻ em.

(6) Về hệ số sử dụng đất

Tại QC 2008, từ độ cao 46m trở lên không còn một khống chế gì do vậy kể cả mật độ đáp ứng nhưng nếu các công trình có tầng cao lớn thì HSSDĐ tăng cao gây áp lực lên hạ tầng. Thực tiễn thời gian qua nhiều dự án đô thị có các HSSDĐ lên đến 18-20 lần do QC 2008 không quy định dẫn đến mật độ cư trú rất cao.

Ngoài ra đối với các khu vực đô thị hiện hữu và các khu vực phát triển mới cần khống chế về mức chất tải hạ tầng việc quản lý thông qua HSSDĐ là cần thiết thay cho việc quản lý bằng mật độ xây dựng và tầng cao chỉ nhắm vào vấn đề cảnh quan, không gian đô thị. Riêng đối với từng lô đất, hệ số sử dụng đất cần được khống chế, với trường hợp trình độ và khả năng đáp ứng hạ tầng ở mức cao cũng không nên vượt quá 13 lần đối với các công trình hỗn hợp đa chức năng, còn đối với công trình ở không quá 7 lần, đương nhiên loại trừ các trường hợp công trình mang tính điểm nhấn của đô thị sẽ phải có nghiên cứu riêng.

(7) Hệ thống chỉ tiêu đối với các loại hình hỗn hợp, đa chức năng.

- Bên cạnh việc quy định các chức năng được hỗn hợp lại với nhau trong một khu đất, một công trình phải đảm bảo các yêu cầu về an toàn vệ sinh môi trường, các loại hình hỗn hợp, đa chức năng cần phải quản lý được nhu cầu về hạ tầng xã hội cho người dân cũng như nhu cầu về hạ tầng kỹ thuật của toàn khu đất hỗn hợp. Việc xác định này có thể được thực hiện qua việc xác định tỷ lệ diện tích sàn của từng chức năng và quy đổi sàn ở về dân số tương đương để tính toán. Cụ thể như sau:

+ Đối với các khu đất, công trình có yếu tố ở, cần phải có chỉ tiêu khống chế về mật độ cư trú để đảm bảo khả năng đáp ứng hạ tầng xã hội. Chỉ tiêu khống chế này cần được xác định thông qua quy hoạch.

+ Đối với các khu đất, công trình hỗn hợp nói chung việc xác định chỉ tiêu diện tích sàn là cần thiết để đảm bảo khả năng đáp ứng HTKT. Chỉ tiêu diện tích sàn có thể được xác định gián tiếp thông qua HSSDĐ.

- Có thể phân biệt loại hình hỗn hợp, đa chức năng có yếu tố ở với loại hình hỗn hợp, đa chức năng không có yếu tố ở thông qua việc sử dụng các khái niệm khác nhau:

+ Đối với loại hình hỗn hợp, đa chức năng có yếu tố ở sẽ sử dụng các khái niệm như: đất khu ở hỗn hợp; đất ở hỗn hợp, công trình nhà ở hỗn hợp...

+ Đối với loại hình hỗn hợp, đa chức năng không có yếu tố ở sẽ sử dụng các khái niệm như: đất hỗn hợp, công trình hỗn hợp...

 (8) Yêu cầu thực tiễn về các chỉ tiêu quy hoạch cho khu vực đô thị hiện hữu, khu vực nông thôn có xu hướng đô thị hóa.

- Nhóm quy hoạch dọc các tuyến đường mới mở, các quy hoạch tái thiết đập đi xây mới hoàn toàn trên 2ha; các quy hoạch cải tạo tăng thêm dân số, tầng cao… cần quản lý chặt chẽ nhóm này và hiện là các vấn đề chính của đô thị lớn.

- Nhóm di sản đô thị (khu phố cổ) phải có nghiên cứu riêng theo đặc thù đô thị, không nên có chỉ tiêu cứng nhắc.

- Nhóm còn lại có quy định chỉ tiêu cứng nhưng với mức độ linh hoạt cao hơn để phù hợp với thực tế, đảm bảo tính khả thi và hướng tới tiệm cận các chỉ tiêu cho đô thị mới.

 (9) Công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị (sử dụng chung kết cấu hạ tầng, xã hội hóa…).

- Về các chỉ tiêu để xác định nhu cầu sử dụng hạ tầng kỹ thuật: nên loại bỏ các quy định cứng vể chỉ tiêu hạ tầng kỹ thuật theo từng cấp, loại đô thị (trong hệ thống quy chuẩn kỹ thuật), chỉ quy định thông số giới hạn để đảm bảo tiện nghi tối thiểu cho người dân đô thị. Việc xác định chỉ tiêu để tính toán nhu cầu hạ tầng kỹ thuật trong quy hoạch và quản lý phát triển đô thị là cần thiết nhưng phải căn cứ vào thực tế phát triển đô thị, khả năng đầu tư xây dựng và bản thân nhu cầu và khả năng chi trả của người sử dụng.

- Đối với các khu vực đô thị hiện hữu, chỉ tiêu cần thiết về hạ tầng kỹ thuật phải được xác lập là khả năng đáp ứng nhu cầu hạ tầng nói chung và HTKT nói riêng. Đây là chỉ tiêu quan trọng trong công cụ đánh giá tác động hạ tầng của các dự án phát triển trong khu vực đô thị hiện hữu.

IV. Cơ sở dữ liệu quy hoạch đô thị

1. Tồn tại

Thiếu dữ liệu cơ bản phục vụ công tác nghiên cứu lập quy hoạch và quản lý phát triển đô thị là một vấn đề lớn và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng các đồ án quy hoạch hiện nay. Hiện nay, tại Việt Nam không có hệ thống cơ sở dữ liệu chuyên ngành thống nhất phục vụ cho công tác QHĐT và QLPTĐT mà phân tán trong hệ thống dữ liệu của các Bộ, Ngành, cơ quan địa phương. Các dữ liệu không những thiếu, không đồng bộ mà còn ít được cập nhật.

            (1) Dữ liệu quản lý phát triển đô thị bao gồm các nhóm: bản đồ, kinh tế - xã hội, dân số - lao động, sử dụng đất, hạ tầng xã hội, hạ tầng kĩ thuật, môi trường, quản lý phát triển đô thị. Một số vấn đề tồn tại bao gồm:

Loại hình dữ liệu: cần phải bổ sung các loại hình dữ liệu về bản đồ chuyên đề, dữ liệu biến đổi khí hậu, cảnh báo thiên tai. Đối với các dữ liệu sử dụng đất dân số, hạ tầng kỹ thuật cần phải bổ sung các thông tin chuyên sâu và chi tiết: sự biến thiên của dân số, giao thông công cộng đô thị, lưu lượng và mật độ xe trên các tuyến đường, lưu lượng từng loại rác thải...

Chất lượng dữ liệu: trong các văn bản có quy định tuy nhiên việc ứng dụng trong thực tế còn thiếu, không đủ tính cập nhật (do sử dụng các dữ liệu cũ), đặc biệt là nội dung các dữ liệu còn sơ sài như dữ liệu về lao động, nhà ở…

Theo thông tư số 12/2016/TT-BXD quy định về phần bản vẽ trong hồ sơ quy hoạch đô thị, hầu hết bản vẽ của các bộ môn và nội dung bản vẽ đều quy định đo vẽ trên bản đồ nền địa hình theo tỷ lệ thích hợp. Như vậy bản đồ nền địa hình đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung thông tin của các đồ án quy hoạch đô thị.

Để đảm bảo tính đầy đủ của dữ liệu, qua khảo sát và phân tích, dữ liệu quy hoạch cần phải có đủ 72 lớp thông tin chính phân chia theo các nhóm và đã được liệt kê trong bảng thuyết minh tổng hợp.

            (2) Việc áp dụng công nghệ GIS đã được một số nước áp dụng như Mỹ, Trung Quốc, Hàn Quốc... Các quốc gia này đã phát triển chính sách đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng GIS quốc gia. Việc hoàn thiện GIS quốc gia đã được chú trọng đầu tiên nên đã đưa lại nền tảng cơ bản cho các ứng dụng chuyên ngành. Các ứng dụng nâng cao tiếp tục được phát triển dựa trên dữ liệu không gian đã được xây dựng đối với đô thị là hệ thống hỗ trợ quyết định như PSS-hệ thống hỗ trợ quy hoạch, DSS-hỗ trợ mô phỏng một vấn đề cụ thể nhằm trợ giúp quy hoạch, SDSS-hỗ trợ các chuyên gia đưa ra quyết định lựa chọn, với sự tham gia của các bên liên quan.

Tại Việt Nam, việc áp dụng công nghệ được thí điểm khá sớm nhưng đến nay vẫn ở mức thấp so với thế giới, hạ tầng dữ liệu không gian quốc gia vẫn chưa được hoàn thiện. Việc phát triển ứng dụng GIS hiện nay còn đơn lẻ chưa có sự đồng bộ trong các ngành nói chung và ngành xây dựng nói riêng, do vậy hiệu quả của ứng dụng mới giới hạn ở các lĩnh vực lưu trữ, in ấn, các tư liệu bản đồ bằng công nghệ GIS. Trong lĩnh vực quản lý, điều hành, trợ giúp quyết định hầu như mới dừng ở mức thử nghiệm. Các quy định ứng dụng công nghệ GIS đến nay vẫn chưa có một văn bản cụ thể nào được ban hành trong ngành quy hoạch. Bên cạnh đó còn có một số khó khăn trong việc ứng dụng GIS tại Việt Nam được đúc kết từ những kinh nghiệm ứng dụng GIS đã và đang triển khai, các vấn đề phương tiện máy móc, phần mềm… được nêu dưới đây:

- Máy móc: nhiều cơ quan, đơn vị chưa phát huy được hiệu quả hạ tầng các thiết bị đúng mức. Nhiều nơi tuy đầu tư mua sắm trang thiết bị nhưng việc ứng dụng CNTT trong chuyên môn nghiệp vụ rất hạn chế.

- Phần mềm: công nghệ phần mềm chủ yếu tự phát, nhiều nơi vẫn còn sử dụng phần mềm không có bản quyền.

- Dữ liệu: chưa có khung chuẩn về cơ sở địa lý, do vậy xây dựng dữ liệu tại các đơn vị có ứng dụng GIS không đồng nhất. CSDL nền dùng chung chưa thống nhất giữa các cơ quan, đơn vị… Các sản phẩm dữ liệu được xây dựng từ các đề tài, dự án mới chỉ ứng dụng ở mức độ phục vụ chuyên môn nghiệp vụ.

- Con người: một số nơi đã đào tạo được một lực lượng cán bộ chuyên môn có trình độ nghiệp vụ tương đối chắc chắn, đảm bảo là nhân tố nòng cốt cho việc tiếp quản, vận hành và phát triển các dự án GIS. Tuy nhiên số lượng những đơn vị này chưa nhiều.

- Cơ chế: đây là một trong những nguyên nhân lớn cho việc ứng dụng GIS còn nhiều hạn chế. Do chưa ban hành quy định ứng dụng công nghệ GIS trong ngành quy hoạch nên một số dự án mặc dù đã xây dựng phần mềm GIS với mục tiêu xây dựng cơ sở dữ liệu GIS và vận hành hệ thống, tuy nhiên sau khi phần mềm được chuyển giao cho đơn vị thì chỉ vận hành được thời gian ngắn và bị bỏ dở hay không hoạt động thường xuyên.

2. Định hướng đổi mới

Ứng dụng GIS trong xây dựng bộ cơ sở dữ liệu

Việc ứng dụng công nghệ thông tin và hệ thống thông tin địa lý GIS giúp nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trong công tác kiến trúc, quy hoạch, cụ thể cần triển khai các nội dung:

+ Xây dựng phần mềm tích hợp CSDL GIS từ các CSDL chuyên ngành.

+ Xây dựng phần mềm quản trị CSDL GIS.

+ Xây dựng phần mềm phân phối CSDL GIS.

+ Xây dựng các phần mềm quản lý chuyên ngành ứng dụng GIS: quản lý hạ
tầng đô thị, quản lý hạ tầng KT-XH.

+ Xây dựng các mô hình phân tích không gian phục vụ công tác lập đồ án quy hoạch (đánh giá khả năng phục vụ của hệ thống hạ tầng xã hội, hệ thống hạ tầng kỹ thuật, đánh giá biến động sử dụng đất và tình hình triển khai quy hoạch, phân tích lựa chọn đất xây dựng đô thị, phân tích tính phù hợp đất đai cho phát triển các khu chức năng đô thị...).

+ Xây dựng và ban hành sổ tay hướng dẫn ứng dụng GIS trong quy hoạch đô thị:

  • Sổ tay hướng dẫn chuẩn hóa cơ sở dữ liệu GIS quy hoạch đô thị.
  • Sổ tay hướng dẫn xây dựng cơ sở dữ liệu GIS quy hoạch đô thị.

+ Xây dựng khung cơ sở dữ liệu chung cho quy hoạch đô thị:

  • Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về nhà ở tại các địa phương.
  • Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về hiện trạng phát triển đô thị tại các địa phương.
  • Xây dựng cơ sở dữ liệu hiện trạng phát triển đô thị (địa hình, địa chất, sử dụng đất, hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật, môi trường, mô hình số độ cao,...).
  • Xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu; mô hình và cơ chế vận hành hệ thống

+ Xây dựng hệ thống hỗ trợ quyết sách quy hoạch.

V. Công tác điều chỉnh quy hoạch

1. Tồn tại

Công tác điều chỉnh quy hoạch đang diễn ra thường xuyên, ở mọi cấp đồ án quy hoạch đô thị, với các quy mô và mức độ khác nhau. Nội dung điều chỉnh có thể là những thay đổi lớn về quy mô, chức năng, chỉ tiêu quy hoạch..., làm biến đổi các định hướng lớn và biến đổi cấu trúc của đô thị; nội dung điều chỉnh cũng có thể là những chi tiết rất nhỏ và ít ảnh hưởng. Việc điều chỉnh quy hoạch do nhiều nguyên nhân khác nhau, dẫn đến các hệ quả từ lãng phí thời gian và tài chính, làm mất các cơ hội đầu tư phát triển đô thị cũng như khiến đô thị phát triển thiếu đồng bộ và thiếu kiểm soát. Cần thiết nghiên cứu công tác lập và điều chỉnh quy hoạch nhằm giảm thiểu việc phải điều chỉnh quy hoạch cũng như thực hiện các điều chỉnh quy hoạch cần thiết đảm bảo đô thị phát triển có kiểm soát.

2. Định hướng đổi mới

Để giảm thiểu các bất cập hiện nay về công tác điều chỉnh quy hoạch, trong đó có 02 xu hướng: (1) có quá nhiều những điều chỉnh cần phải thực hiện để có thể khả thi và (2) có những điều chỉnh có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển đô thị nhưng chưa có công cụ nào hữu hiệu để kiểm soát. Công tác lập quy hoạch và quản lý phát triển đô thị cần được đổi mới theo các nội dung sau:

- Đổi mới công tác lập quy hoạch

+ Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đô thị và ứng dụng GIS trong quy hoạch và quản lý đô thị. Cơ sở dữ liệu là một trong những yếu tố quan trọng nhất để xây dựng một đồ án quy hoạch tốt. Ứng dụng GIS trong lập quy hoạch đô thị hỗ trợ lựa chọn giải pháp quy hoạch tối ưu, đảm bảo tính khả thi của đồ án quy hoạch.

+ Tích hợp đa ngành: quy hoạch và quản lý đô thị của Việt Nam đang được thực hiện theo các ngành; mỗi ngành đều có những nhu cầu về không gian trong đô thị và có những lợi ích liên quan, đôi khi đối lập nhau. Việc lập quy hoạch theo quy trình tích hợp sẽ giúp nhận diện đầy đủ vấn đề và lợi thế của đô thị, giảm thiểu mâu thuẫn giữa các ngành, hướng tới bảo vệ và phát huy tài nguyên đất đai và các nguồn lực hữu hạn của đô thị, đảm bảo sự phát triển bền vững.

+ Đổi mới phương pháp lập quy hoạch theo hướng chiến lược: Quy hoạch chiến lược xác định các mục tiêu và nhiệm vụ ưu tiên, hướng tới khả năng thực hiện và đề cao sự tham gia của các bên liên quan bao gồm chính quyền, chủ đầu tư và cộng đồng dân cư… Theo đó, sẽ phát huy được vai trò của các bên, thống nhất cam kết thực hiện, đảm bảo tính khả thi của đồ án quy hoạch.

+ Đổi mới phương pháp lập quy hoạch theo hướng quy hoạch cấu trúc: Quy hoạch cấu trúc xác định quy mô phát triển đô thị, các cấu trúc không gian và khung hạ tầng kỹ thuật của đô thị. Các cấu trúc không gian là nguyên tắc liên kết các yếu tố không gian vật thể trong đô thị. Từ cấu trúc không gian đô thị, sẽ xác định được khung các khu vực cần bảo vệ nghiêm ngặt bao gồm cấu trúc tự nhiên, các khu vực nguy hiểm, các khu vực đặc thù, quy mô phát triển đô thị… và phân biệt được các vùng kiểm soát linh hoạt. Nhờ đó sẽ giảm thiểu việc điều chỉnh quy hoạch do xác định được các khu vực không được phép xâm phạm và ngoài ra sẽ là các khu vực có mức độ linh hoạt khác nhau (về chức năng sử dụng đất và các chỉ tiêu sử dụng đất).

Với các đổi mới quy hoạch theo hướng tích hợp, cấu trúc chiến lược và ứng dụng GIS, các điều chỉnh không cần thiết như hiện nay đã được giảm thiểu đáng kể (đặc biệt là đối với đồ án quy hoạch chung), giảm được lãng phí tài chính và thời gian của xã hội, đảm bảo công tác quy hoạch và quản lý đô thị diễn ra lành mạnh.

- Xây dựng công cụ kiểm soát:

            + Cần xây dựng các công cụ kiểm soát để giám sát các quy hoạch điều chỉnh.

+ Công cụ đánh giá khả năng dung nạp của quỹ đất, HTXH, HTKT theo phân khu.

            + Công cụ đánh giá năng lực giao thông TIA (Transport Impact Assessment).

- Đổi mới quy trình, nội dung điều chỉnh quy hoạch:

Nguyên tắc:

+ Đảm bảo quyền lợi của cộng đồng.

+ Kiểm soát khung cấu trúc, ngưỡng tải hạ tầng và thực hiện các mục tiêu dài hạn.

+ Không cho phép điều chỉnh quy hoạch xâm phạm và làm tổn hại các khu vực cần bảo vệ nghiêm ngặt bao gồm: các không gian thoát nước tự nhiên, các khu vực bảo tồn cảnh quan, các khu vực tai biến thiên nhiên…

+ Bảo đảm ranh giới phát triển đô thị: Với các điều chỉnh quy hoạch xây dựng mở rộng ra ngoài ranh giới phát triển đô thị, phải đảm bảo khu vực điều chỉnh mở rộng mang lại lợi ích cho cộng đồng. Phải lập Báo cáo giải trình kinh tế - kỹ thuật - môi trường để minh chứng cho tính hữu ích vượt trội của dự án.

            + Đối với đất công cộng: các điều chỉnh cần hướng đến lợi ích cộng đồng; cần đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn về chỉ tiêu đất đai, hạ tầng; tăng cường khả năng tiếp cận…

+ Đối với các khu vực phát triển linh hoạt: các điều chỉnh cần thỏa mãn các điều kiện về kiểm soát phát triển tại từng khu vực bao gồm đáp ứng khả năng dung nạp của quỹ đất, HTXH, HTKT theo phân khu; tuân thủ các điều kiện về cảnh quan, môi trường, TKĐT…

  • Quy trình:

(i). Cơ quan tổ chức lập quy hoạch trình và được cơ quan phê duyệt quy hoạch phê duyệt chủ trương điều chỉnh quy hoạch.

(ii). Cơ quan tư vấn Lập quy hoạch điều chỉnh.

(iii). Cơ quan tư vấn Lập báo cáo đánh giá các tác động của việc điều chỉnh theo quy định của các văn bản quy phạm pháp luật tại khu vực điều chỉnh quy hoạch (đánh giá tác động giao thông, đánh giá khả năng dung nạp quỹ đất, giải trình sự tuân thủ các quy định về tầng cao, giải trình sự phù hợp với các quy định thiết kế đô thị…).

(iv). Xin ý kiến cộng đồng.

(v). Thẩm định.

(vi). Phê duyệt Quy hoạch điều chỉnh.

(vii). Công bố quy hoạch điều chỉnh.

(viii). Cập nhật điều chỉnh.

 

(Nguồn:Tạp chí QHXD số 100)
Tin cũ hơn

Tạp chí QHXD

Ebook

Giới thiệu sách

Liên kết website