AN NINH NGUỒN NƯỚC CHO CÁC ĐÔ THỊ Ở ĐÔNG NAM Á VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ ĐÔ THỊ HÓA

An ninh nguồn nước đang là vấn đề được tất cả các nước trên thế giới quan tâm. Dưới tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH), dân số tăng, công nghiệp hóa và đô thị hóa (ĐTH) diễn ra nhanh chóng, nhu cầu sử dụng nước sẽ ngày càng cao, trong khi nguồn nước có hạn và đang bị suy thoái nghiêm trọng. Như vậy, các tác động của BĐKH và phát triển kinh tế xã hội sẽ gây ảnh hưởng đặc biệt tới an ninh nguồn nước tại các đô thị, nơi tập trung dân cư cao, tốc độ ĐTH diễn ra mạnh mẽvà đồng thờicũng tạo ra những áp lực lên cơ sở hạ tầng đô thị, ảnh hưởng tới chất và lượng của nguồn nước cấp. Bài viết này tổng hợp và chỉ ra các tác động ngắn hạn và dài hạn của BĐKH cũng như ĐTH lên an ninh nguồn nước tại các đô thị. Từ đó cho thấy tầm quan trọng của thể chế hóa quản lý nguồn nước, xây dựng quy hoạch sử dụng nước và thu hút đầu tư cho cơ sở hạ tầng cấp thoát nước...tại các đô thị đang phát triển.

Mở đầu

Đông Nam Á là một trong những khu vực phát triển nhanh nhất trên thế giới cả về kinh tế và dân số, đô thị hóa được dự báo sẽ tiếp tục phát triển với tốc độ cao trong những năm tới [1]. Đồng thời, Đông Nam Á đang tiến hành công nghiệp hóa, trong đó công nghiệp và dịch vụ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế của khu vực so với nông nghiệp, và một số nước đã đặt mục tiêu trở thành nước phát triển trong vòng 30 năm [2,3]. Trong khi đó, khu vực này lại thường xuyên phải hứng chịu các hiện tượng thiên tai như lũ lụt và lốc xoáy. Biến đổi khí hậu được dự báo sẽ còn làm gia tăng tần suất của các hiện tượng này trong khu vực, đồng thời làm thay đổi lượng mưa, từ đó dẫn đến các vấn đề về nguồn nước tại đây[4]. Chính vì thế, việc đánh giá ảnh hưởng của biến đối khí hậu đến an ninh nguồn nước cho các đô thị có tốc độ đô thị hóa mạnh mẽ sẽ ngày càng trở nên cần thiết. An ninh nguồn nước được Liên hợp quốc (LHQ) định nghĩa là năng lực của cộng đồng dân cư để đảm bảo tiếp cận đủ lượng nước với chất lượng đạt tiêu chuẩn, đảm bảo sinh kế của con người và phát triển kinh tế xã hội, hạn chế ô nhiễm nguồn nước và các bệnh liên quan tới nguồn nước, và để bảo tồn các hệ sinh thái trong môi trường hòa bình và ổn định chính trị [5].

Bài viết này tổng hợp các nghiên cứu đã có, đưa ra nhận định về các tác động của đô thị hóa và biến đổi khí hậu lên an ninh nguồn nước tại các đô thị ở Việt Nam và Đông Nam Á, từ đó đề xuất các giải pháp cho vấn đề an ninh nguồn nước của đô thị Việt Nam.

Đô thị hóa – gia tăng nhu cầu về nước cấp cho sản xuất và sinh hoạt, gia tăng sức ép lên cơ sở hạ tầng đô thị

Xu hướng đô thị hóa (ĐTH) đang diễn ra rất mạnh ở các nước Đông Nam Á và Việt Nam không nằm ngoài số đó. ĐTH diễn ra mạnh được cho là do các doanh nghiệp chuyển đến các khu đô thị nhằm tiếp cận gần hơn nguồn cung cấp nguyên liệu và đồng thời tăng cường cơ hội tiếp cận khách hàng. ĐTH dẫn đến gia tăng lượng người từ nông thôn lên thành thị nhằm tìm kiếm việc làm[1]. Đặc biệt trong khoảng 20 năm trở lại đây, dân số thành thị tăng rất nhanh. Theo báo cáo của ASEAN và NordeaTrade, tỷ lệ phần trăm dân số thành thị ở các nước trong khu vực vào năm 2000 và 2018 lần lượt là 24,37% và 35,92%, và được dự báo tăng lên 44,50% và 57,30% vào tương ứng cácnăm 2030 và 2050 [2,3].

Mặt khác, theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, tỷ lệ đóng góp của ngành dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cũng là lớn nhất trong tất cả các ngành ở Việt Nam và có xu hướng tăng mạnh trong giai đoạn từ 2010 đến 2018 [4]. Cụ thể làtỷ lệ đóng góp của ngành nông nghiệp, công nghiệp và ngành dịch vụ lần lượt là 18%, 32% và 37% GDP trong năm 2010. Đến năm 2018, các con số này tăng lần lượt lên 34% và thậm chí là 41% đối với các ngành công nghiệp và dịch vụ, còn tỷ lệ đóng góp vào tổng GDP của ngành nông nghiệp lại có xu thế giảm, xuống còn 15%.Điều nàydự báo sự dịch chuyển dân cư từ nông thôn lên thành thị, tỷ lệ dân số thànhthị sẽ có xu hướng tăng mạnh trong thời gian tới do sự phát triển nhanh của ngành dịch vụ và tốc độ ĐTH.

Nước sinh hoạt tại các đô thị chủ yếu được khai thác từ nguồn nước ngầm. Tuy nhiên, do sự gia tăng về dân số tại các đô thị, dẫn tới nhu cầu về nước cũng ngày càng tăng theo, chưa kể nhu cầu này còn tăng mạnh hơn nữa vào mùa khô[5]. Vấn đề chính đối với chất lượng nước ngầm sử dụng cho mục đích sinh hoạt là ô nhiễm từ nước thải và rò rỉ nhà vệ sinh tại chỗ. Chưa kể đến, chất lượng nước còn bị ảnh hưởng bởi ô nhiễm từ thuốc trừ sâu, các nguồn công nghiệp và xâm nhập mặn [6]. Một số người dân đã khai thác nước ngầm ở các cấp độ sâu hơn nhằm giải quyết vấn đề này. Ô nhiễm nước mặt cũng là một nguyên nhân khác gây ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước ngầm một cách đáng kể [7].

Trong khi tốc độ ĐTH đang diễn ra rất nhanh như vậy thì cơ sở hạ tầng kỹ thuật lại chưa theo kịp. Tại các nước ở Đông Nam Á, chưa tới 15% dân số kếtnối với hệ thống thoát nước thải[8]. Ngay cả ở các thành phố thủ đô,nước thải cũng không được thu gom xử lý toàn bộ, chẳng hạn như chỉ có 30% lượng nước thải ở Hà Nội và50% ở Bangkok làđược xử lý. Bể tự hoại là loại hệ thống vệ sinh phổ biến nhất ở các nước, tuy nhiên, hệ thống này lại không được vận hành đúng theo hướng dẫn để đạt được chất lượng nước thải đầu ra đạt chuẩn kỹ thuật. Theo kết quả điều tra ở Việt Nam của Ngân hàng Thế giới, 75% dân số thành thị được khảo sát cho câu trả lời là không hút bể phốt định kỳ [9]. Bên cạnh đó, các thiết bị vệ sinh thô sơ hơn bể tự hoại, chẳng hạn như hố xí cải tiếnvẫn đang được sử dụng và cũng là một nguồn rò rỉcác chất ô nhiễm ra nước ngầm, như nitơ, phốt pho và vi sinh vật gây bệnh [10].Thậm chí, ô nhiễm từ các thiết bị vệ sinh hộ gia đình có thể ảnh hưởng đến chất lượng nước ngầm của các khu vực xung quanh tùy mức độ xa gần.

Như vậy, tốc độ ĐTH nhanh kéo theo sự gia tăng nhu cầu về nước, nhưng đồng thời, cũng tạo ra những áp lực lên cơ sở hạ tầng đô thị, ảnh hưởng tới chất và lượng của nguồn nước cấp.

Biến đổi khí hậu có ảnh hưởng trước mắt và ảnh hưởng lâu dài tới nguồn nước đô thị

Sự biến đổi khí hậu toàn cầu làm cho các hiện tượng thời tiết biến chuyển theo chiều hướng cực đoan, khắc nghiệt hơn trước, cũng như gia tăng về tần suất xảy ra các hiện tượng này [3,11]. Lượng mưa ở Đông Nam Á bị chi phối bởi đới gió mùa. Thời kỳ gió mùa ẩm ướt rõ rệt (mùa mưa) trong những tháng mùa hètừ tháng 6 đến tháng 10 và thời kỳ khô hạn (mùa khô) trong các tháng từ tháng 12 đến tháng 4, tháng 5 và tháng 11như những tháng chuyển tiếp [12]. Trong suốt thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21, lượng mưa có xu hướng gia tăng cường độ đối với cả mùa khô và mùa mưa [13].Thêm vào đó, tần suất mưa cũng tăng nhiều hơn, và các hiện tượng thời tiết cực đoan cũng gia tăng với tần suất lớn hơn.Việt Nam là nước bị ảnh hưởng nhiều bởi lốc xoáy do vị trí hướng ra Thái Bình Dương và Biển Đông [3]. Việt Nam nhận tới 25% lượng mưa từ các cơn lốc xoáy vào mùa mưa [14].Tần suất cao của các cơn lốc xoáy ở Việt Nam (63 lần trong giai đoạn 1998-2018) ảnh hưởng đến gần nửa triệu người và được ước tínhgây ra tổng thiệt hại cao nhất trong số các thảm họa khí tượng thủy văn, gần 31 tỷ USD[15]. Khác với lốc xoáychỉ xảy ra nhiều ở Phillippin và Việt Nam, lũ lụt lại có tác động đáng kể ở tất cả các nước trong khu vực Đông Nam Á. Lũ lụt đã gây ra thiệt hại kinh tế rất lớn đối với tất cả các nước. Thiên tai lũ lụt thường xuyên xảy ra, nhưng lũ lụt vẫn là thảm họa thường xuyên xảy ra nhất [15].Hạn hán ít xảy ra hơn lũ lụt hoặc lốc xoáy. Mặc dùthiếu dữ liệu về thiệt hại kinh tế do hạn hán gây ra, Việt Nam đặc biệt bị ảnh hưởng bởi hạn hán khi xét về số người bị ảnh hưởng hoặc giá trị thiệt hại do hạn hán gây ra. Nhìn chung, thiệt hại về kinh tế dothiên tai gây ra tại Việt Nam là đáng kể, dao động từ 1 đến gần 6%GDP hàng năm, và các đô thị sẽ là nơi chịu tổn thương nặng nề hơn cả[16].

Không chỉ có thế, BĐKH được dự báo sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nước ở Đông Nam Á do sự gia tăng của nhiệt độ nước, giảm dòng chảy trong thời gian dòng chảy thấp và tăng nguy cơ từnhiễm mặn do triều cường và nước biển dâng [17]. Nhiệt độ của các vùng nước nội địa dự kiến sẽ tăng từ 0,5oC đến 2oC vào cuối thế kỷ này. Tăng nhiệt độ của nước sẽ là điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của tảo và vi khuẩn, dẫn đến giảm chất lượng của nước cho mọi mục đích sử dụng [18]. Việc giảm dòng chảy trong thời gian dòng chảy thấp cũng sẽ giảm sự pha loãng của các chất ô nhiễm, dẫn đến tăng hàm lượng các chất ô nhiễm này trong các dòng chảy. Ảnh hưởng lâu dài của BĐKH đến chất lượng nước ở các vùng ven biển là làm tăng độ mặn của trữ lượng nước ngầm tại đây khi mực nước biển dâng lên[19].

Sự thay đổi về lượng mưa và chế độ dòng chảy thể hiện rõ rệt theo mùa, đặc biệt là gây nên những căng thẳng về nhu cầu nước trong mùa khô. Nhu cầu về nước ngầm sẽ tăng lên, đặc biệt là trong mùa hè khô hạn, và nhu cầu về nước này thậm chí còn tăng mạnh hơn ở các thành phố đang phát triển [20].Tại các khu đô thị, khi khả năng tiếp cận nguồn nước bị hạn chế trong mùa khô, nguồn nước ngầm sẽ được khai thác nhiều hơn [6,20]. Việc tiếp cận với nguồnnước cũng có thể bị ảnh hưởng do hư hỏng cơ sở hạ tầng cung cấp nước dưới những tác động của thiên tai[21]. Ngoài ra, thiệt hại mạng lướicung cấp và lưu trữnước trong mùa mưa lớn cũng có thể hạn chế việc tiếp cận nước trong mùa khô do cần được sửa chữa và phục hồi.

Ngoài ra, tổng lượng dòng chảy mặt trên lãnh thổ Việt Nam vào khoảng 830 tỷ m3, trong đó có khoảng 63% dòng chảy có nguồn gốc từ các quốc gia khác và nằm ngoài khả năng quản lý trực tiếp của nước ta, do đó nguồn nước còn phụ thuộc rất lớn vào động thái phát triển của các quốc gia thượng nguồn các lưu vực sông lớn.

Với thực trạng về nhu cầu nước ngày càng gia tăng trong khi chất lượng nước ngày càng xấu đi như vậy, hạ tầng cơ sở cấp nước, thoát nước phục vụ cho việc đảm bảo nguồn nước cung cấp cho các mục đích sản xuất và dân sinh sẽ cần phải được chú trọng đầu tư nhiều hơn.

Các vấn đề về an ninh nguồn nước cho đô thị ở Việt Nam

Việt Nam dễ bị ảnh hưởng bởi cả lũ lụt và lốc xoáy thường xuyên, vàcả hai thảm họa thiên tai này đều được dự báo sẽ tăng cường độ trong tương lai, gây ảnh hưởng lớnđến an ninh nguồn nước, đặc biệt là tại các đô thị. Lũ lụt sẽ mang theo các chất ô nhiễm,bao gồm cả hóa chất dùng trong nông nghiệp và công nghiệp, trực tiếp đổvào cả nguồn nước mặt và nước ngầm tại các điểm tiếp cận như giếng [23]. Tại các đô thị, lũ lụt có thể làm hỏng cơ sở hạ tầng vệ sinh, có thểgây tràn nước thải thô, và do đó, làm ô nhiễm nguồn cấp nước cho sinh hoạt [24].Bể tự hoạidường như không phải là yếu tố góp phần chính vàoô nhiễm nước ngầm trong các trận lũ ở cấp độ trung bình [25], nhưng nó lại là nguyên nhân chính trong những trận lũ mạnh [26]. Các khu công nghiệp nằm gần đô thị sẽ trở thành các nguồn gây ô nhiễm chất hóa học khi lũ lụt xảy ra và nước lũ cuốn trôi qua các khu công nghiệp sẽmang các chất gây ô nhiễm ra sông và vào nguồn nước ngầm. Lốc xoáy có thể làm giảm chất lượng nước trong thời gian dài hơn khi gió mạnh và mưa xối xả thêm vào. Một ví dụ điển hình là quá nhiều coliformđượcquan sát thấy trong nước ngầm nhiều tháng sau khi một cơn bão cực mạnh đổ bộ vào đất liền và nguyên nhân chủ yếu là do các công trình vệ sinh bị phá hủy [27]. Nước dâng trong bão từ các cơn lốc xoáy dẫn đếnnhiễm mặn cả nước mặt và các tầng chứa nước ven biển, sẽ phải mất nhiều năm nữa để nước mưa có thể làm trôi đi lượng nước mặn đã xâm nhậpnày [28,29].

Mặt khác, các đô thị lớn ở Việt Nam nằm trên các đường bờ biểnbị nhiễm mặn do việc khai thác nước ngầm ồ ạt [30,31]. Với cường độ ngày càng tăng của các đợt lốc xoáy cùng với việc gia tăng di cư đến các thành phố ven biển lớn do nhận thức được các cơ hội việc làmtrong lĩnh vực dịch vụ, Việt Nam sẽ phải đối phó vớinhiễm mặn do nước biểndângdo bão và đối mặt với ô nhiễm chất thải của con người do thiệt hại về cơ sở hạ tầng vệ sinh. Như vậy, trọng tâm chính của an ninh nguồn nước trong tương lailà giảm tác động của thiên tai lên tài nguyên nước, một lĩnh vực chưa được xem xét đúng mức trong quy hoạch phòng chống thiên tai [22].Quy hoạch dự báo ứng phó thiên tai và đánh giá hậu quả củalũ lụt tại các đô thịnên được chú trọng xem xét, đặc biệt là đánh giá thiệt hại đối vớihạ tầng vệ sinh, gây nên suygiảm chất lượng nguồnnước [32].Quản lý nước lũ và nước mưa nhằm giúp giảm thiểu các tác động của thiên tai đối với chất lượng nước cấp, bảo vệ các điểm tiếp cận nguồn nước cấp cho sinh hoạt và thường xuyên nâng cấp cơ sở hạ tầng khỏi tác động của lũ lụt là các vấn đề trọng tâm trong quy hoạch quản lý nguồn nước đô thị dài hạn.

Thể chế hóa quản lý nguồn nước ở Việt Nam

Là quốc gia được ưu ái về nguồn nước, tuy nhiên dưới tác động của BĐKH, ĐTH và dân số phát triển, Việt Nam cũng đang phải đối đầu với những vấn đề về an ninh nguồn nước. Các thách thức lớn mà Việt Nam vẫn còn đang gặp phải đó là: i) Quy hoạch thủy lợi, hệ thống tưới tiêu, tích trữ nước, quản trị nước còn hạn chế, không có kế hoạch và phương tiện đủ để điều chuyển nước từ nơi này sang nơi khác; ii) Hạn chế về quyền chủ động đối với nguồn nước, tài nguyên nước do phụ thuộc nặng nề vào nguồn nước ngoài biên giới. Vấn đề hợp tác quản lý các sông liên quốc gia nhất là lưu vực sông Mekong khá khó khăn; iii) Hệ thống cơ sở hạ tầng cấp nước còn hạn chế, tỷ lệ người dân đô thị được cung cấp nước sạch qua hệ thống cấp nước tập trung đến năm 2020 là khoảng 90% [33]; iv) Hiệu quả sử dụng nước thấp, chưa tiết kiệm, năng lực khai thác công trình thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu; lượng nước thất thoát trong thủy lợi khoảng 30%, trong cấp nước sinh hoạt 25,5%; chưa có quy hoạch tổng thể về sử dụng nguồn nước; chưa có kế hoạch và kinh phí thay thế các hồ tích nước cũ, mất an toàn[34]; v) Quản lý nguồn nước mặt, nước ngầm còn nhiều bất cập, gây nhiều vấn đề môi trường, nguồn nước và rủi ro khi thiên tai.

Chính vì thế, thể chế hóa quản lý nguồn nước, xây dựng quy hoạch sử dụng nước đi đôi với thu hút đầu tư cho hạ tầng thủy lợi... là những giải pháp được đưa ra. Cụ thể là: i) Tăng cường tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của người dân cũng như tăng cường năng lực thực thi pháp luật về quản lý tài nguyên nước và ứng phó với biến đổi khí hậu; ii) Đẩy mạnh xây dựng và thực thi quy hoạch quản lý tài nguyên nước hiệu quả, tiết kiệm, an toàn và bền vững trong tổng thể quản lý và phát triển bền vững các nguồn tài nguyên khác; iii) Tích cực điều tra, đánh giá xác định thực trạng tài nguyên nước về số lượng, chất lượng, phục vụ lập quy hoạch tài nguyên nước quốc gia, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu; iv)Tăng cường nguồn lực đầu tư cho hạ tầng về nước, xác định thực hiện các giải pháp tích trữ nguồn nước dựa vào xu thế tự nhiên, điều hòa, phân phối, khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước, có kế hoạch và phương tiện đủ để điều chuyển nước từ nơi này sang nơi khác.

Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp lý về quản lý nguồn nước như Luật Tài nguyên nước năm 2012, Luật Thủy lợi năm 2017, Luật Bảo vệ môi trường năm 2019, Luật sửa đổi, bổ sung của một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều năm 2020, và các Nghị định thi hành. Bên cạnh đó, Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia đang được xây dựng trình phê duyệt từ giờ tới cuối năm 2021. Mới đây, Chính phủ ban hành Nghị định số 41/2021/NÐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 82/2017/NÐ-CP ngày 17-7-2017 của Chính phủ quy định về thu phí, cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo mục đích sử dụng nước nhằm góp phần điều tiết, bảo đảm an ninh nguồn nước.

Một số kiến nghị cho quy hoạch và quản lý cấp nước đô thị

Thiếu và khan hiếm nước được nhìn nhận dưới hai góc độ là nguồn nước hạn chế và năng lực cung cấp nước hạn chế đi đôi với việc sử dụng lãng phí kém hiệu quả trước nhu cầu ngày càng gia tăng cũng như thiếu các giải pháp ứng phó phù hợp khi có các sự cố, tai biến do con người hoặc tự nhiên, BĐKH. Chính vì vậy, công tác quy hoạch và quản lý cấp nước cần phải giải quyết và có những giải pháp phù hợp cho hai vấn đề nêu trên.  

Đảm bảo tính tích hợp, chia sẻ lợi ích, thống nhất liên ngành và giữa các địa phương, doanh nghiệp và các bên sử dụng nước. Khai thác, bảo vệ và sử dụng hiệu quả bền vững các nguồn cấp nước.

Kết hợp áp dụng mô hình, giải pháp cấp nước tập trung và phi tập trung theo hướng linh hoạt. Quan điểm và cách tiếp cận này rất phù hợp trong công tác ứng phó với khan hiếm nước dưới áp lực của gia tăng dân số và tác động bất định của BĐKH. Cụ thể, tăng cường, cải thiện an ninh cấp nước thông qua đa dạng hóa nguồn cấp; nâng cao năng lực thích ứng thông qua tính đa dạng và linh hoạt của hệ thống cấp nước. Nguồn lực và thời gian đầu tư sẽ ngắn và ít tốn kém hơn so với hệ thống tập trung. Đồng thời thể hiện tính linh hoạt trong thiết kế vận hành phù hợp với điều kiện địa phương và giảm áp lực cho hệ thống cấp nước tập trung.

Ngoài ra, để đảm bảo an ninh cấp nước, công tác quy hoạch quản lý cấp nước cần phải dựa trên bảy nguyên tắc cơ bản sau:

Nguyên tắc 1: Sinh thái

Quy hoạch và quản lý cấp nước nên tích hợp với các yếu tố khác của chu trình tuần hoàn nước bao gồm thu gom, xử lý nước mưa, nước thải, tái sử dụng nước, bổ cập bảo vệ chất lượng và trữ lượng nguồn nước mặt và nước ngầm. Điều này bao gồm nhiều giải pháp từ quy hoạch quản lý sử dụng đất, không gian nhằm bảo vệ nguồn nước. Với cách tiếp cận như vậy sẽ có các nguồn cung cấp nước đa dạng phù hợp với mục đích và tối ưu hóa việc sử dụng nước.

Nguyên tắc 2: Đảm bảo tính tổng thể và có sự tham gia

Sự tham gia của các bên liên quan góp phần cung cấp các thông tin đầy đủ, định hướng thống nhất liên ngành từ cấp vùng đến cấp đô thị, đảm bảo chia sẻ sử dụng tài nguyên nước hợp lý và hiệu quả. Ngoài ra, giúp công tác cung ứng dịch vụ cấp nước với các phương án quản lý cung và cầu cần thiết đáp ứng nhu cầu và lợi ích của các bên và đối tượng sử dụng nước.

Các chương trình giáo dục và thông tin cộng đồng nên tích hợp vào quy hoạch cấp nước đô thị và cần được thiết kế phù hợp, dựa trên ý kiến của cộng đồng, để tăng cường kiến thức, hiểu biết và sự tham gia cũng như tăng cường hành vi sử dụng nước hiệu quả.

Quy hoạch cấp nước đô thị cần đảm bảo tính minh bạch và toàn diện với các phương pháp tiếp cận tham vấn phù hợp.

Nguyên tắc 3: Chủ động về nguồn nước

Khi đô thị gặp phải tình trạng khan hiếm nước, cần xem xét các nguồn cấp nước mới đi đôi với quản lý nhu cầu và cải thiện hiệu quả của hệ thống cung cấp nước.

Nguyên tắc 4: Đa dạng hóa trong ứng phó rủi ro

Nhằm tăng cường khả năng chống chịu với các biến cố (ảnh hưởng tiêu cực tới công tác cấp nước), cần xác định và xây dựng danh mục các nguồn cấp nước đa dạng và linh hoạt cho đô thị. Đồng thời tận dụng tối đa các nguồn nước sẵn có thông qua cách tiếp cận mục đích, nhu cầu của từng loại hình sử dụng nước.

Nguyên tắc 5: Thích ứng với biến đổi khí hậu

Cần phải có các nguồn nước bổ sung (dự phòng) khác không phụ thuộc vào tác động mang tính bất định của biến đổi khí hậu.

Nguyên tắc 6: Đảm bảo an toàn cấp nước đô thị trong bối cảnh chia sẻ sử dụng tài nguyên nước

Các nguồn cấp nước thường phục vụ các ngành, lĩnh vực và mục đích sử dụng khác nhau, vì vậy công tác quy hoạch và quản lý cấp nước đô thị cần xem xét sử dụng thêm các nguồn nước đảm bảo không bị ảnh hưởng và cạnh tranh đối với các ngành và lĩnh vực khác. Cần xem xét khu vực đô thị là lưu vực tạo ra nguồn cấp nước bao gồm nước ngầm, nước thải tái sử dụng, nước mưa. Các giải pháp này được quản lý và triển khai chủ động ngay tại đô thị và giảm thiểu áp lực tới cấp nước cho các ngành, lĩnh vực khác.

Nguyên tắc 7: Ổn định và sẵn sàng

Xây dựng, phát triển và quản lý hệ thống hạ tầng đảm bảo cung ứng dịch vụ và hoạt động tốt với mọi hoàn cảnh trong tương lai. Nguyên tắc này đảm bảo tính hiệu quả hơn việc áp dụng giải pháp tối ưu theo hướng chỉ giải quyết vấn đề đơn lẻ nhưng lại không hiệu quả khi có các vấn đề phát sinh mới ngoài dự kiến. Vì vậy, công tác cấp nước cần sớm xây dựng các kịch bản ứng phó với khan hiếm nước.

TS.Đỗ Thu Nga - Đại học Điện Lực

ThS. Nguyễn Việt Dũng - VIUP

(Nguồn:Tạp chí QHXD số 111)
Tin cũ hơn

Tạp chí QHXD

Ebook

Giới thiệu sách

Liên kết website