Cần 670 - 720 tỷ USD để phát triển hạ tầng và lấp đầy các KCN đã được quy hoạch

Thực tiễn cho thấy còn rất nhiều khó khăn, hạn chế về tài chính cần phải được tháo gỡ nhằm hỗ trợ các KCN, KKT phát triển tương xứng với tiềm năng.

Định hình lại xu hướng phát triển KCN theo chiều sâu

Nhìn lại cả quá trình phát triển hệ thống KCN từ năm 1992 đến nay và kết quả thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN gần đây, có thể nhận thấy xu hướng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tập trung chủ yếu vào các KCN, Khu kinh tế (KKT).

Hàng năm số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các KCN, KKT chiếm tới 60-70% lượng vốn FDI thu hút được trong cả nước và tỷ lệ này vẫn đang trong chiều hướng tăng lên. Các KCN đóng góp khoảng 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách.

TS Lê Minh Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam phát biểu tại Đại hội Liên chi hội Tài chính Khu công nghiệp Việt Nam lần thứ nhất. Ảnh: VIPFA

Phát biểu tại Đại hội Liên chi hội Tài chính Khu Công nghiệp Việt Nam (VIPFA) lần thứ nhất (nhiệm kỳ 2024- 2029) chiều 25/3, TS Lê Minh Nghĩa, Chủ tịch Hiệp hội Tư vấn Tài chính Việt Nam, chia sẻ: "KCN là một trong những điểm nhấn quan trọng của chính sách phát triển kinh tế ở nước ta từ Đổi mới đến nay.

KCN là mô hình thuận lợi để thu hút vốn đầu tư, và thực tế thời gian qua, đã phát huy được các thế mạnh để trở thành trọng điểm thu hút một lượng lớn vốn đầu tư, bao gồm cả vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài, bổ sung nguồn lực quan trọng cho tổng vốn đầu tư phát triển của quốc gia, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế."

Trước bối cảnh hội nhập quốc tế và sự phát triển của cuộc cách mạng 4.0, việc đổi mới, tái cấu trúc và hoàn thiện mô hình KCN nhằm bắt kịp xu thế toàn cầu, đảm bảo hài hòa lợi ích lâu dài, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững làm mục tiêu cao nhất, đang đòi hỏi phải có những giải pháp mang tính đột phá toàn diện và đồng bộ.

Định hướng, chủ trương của Đảng, Chính phủ gần đây về nâng cao hiệu quả hoạt động của KCN, KKT là kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng theo chiều rộng và chiều sâu, trong đó lấy tăng trưởng theo chiều sâu là hướng chủ đạo.

Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị khóa XII đã đề ra quan điểm chỉ đạo: “Chủ động thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ và bảo vệ môi trường là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Ưu tiên các dự án có công nghệ tiên tiến, công nghệ mới, công nghệ cao, công nghệ sạch, quản trị hiện đại, có giá trị gia tăng cao, có tác động lan toả, kết nối chuỗi sản xuất và cung ứng toàn cầu.”

Nhu cầu đầu tư rất lớn

Hiện nay, trên cả nước đã có 417 KCN và hơn 1000 cụm công nghiệp đã thành lập tại 61/63 tỉnh, thành phố. Trong đó, 296 KCN đã đi vào hoạt động với tổng diện tích đất tự nhiên 92.200 ha, trong đó diện tích đất công nghiệp đạt khoảng 63.116 ha.

26 KKT cửa khẩu được thành lập tại 21 tỉnh biên giới, với tổng diện tích 766.000 ha và 18 KKT ven biển đã thành lập với tổng diện tích 857.600 ha, trong đó diện tích đất liền khoảng 568.400 ha (chiếm 1,68% tổng diện tích cả nước).

Theo quy hoạch sử dụng đất quốc gia đã được Quốc hội thông qua ngày 13/11/2021, đến năm 2030 diện tích đất phát triển các KCN sẽ đạt khoảng 210.930 ha. Như vậy, từ nay đến năm 2030 sẽ có thêm khoảng 120.000 ha KCN, trong đó diện tích đất công nghiệp cho thuê khoảng 80.000 - 85.000 ha.

Hiện đơn giá đền bù đất, giải phóng mặt bằng và định mức xây dựng hạ tầng KCN đã được điều chỉnh tăng so với giai đoạn trước. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Đầu tư quốc tế (ISC), ước tính chi phí đầu tư phát triển một ha đất KCN bình quân hiện nay khoảng 600.000 USD/ha.

Nhu cầu vốn đầu tư phát triển hạ tầng các KCN đã được quy hoạch đến năm 2030, đang và sẽ triển khai xây dựng vào khoảng 72 tỷ USD.

Nhu cầu thu hút đầu tư vào các dự án sản xuất kinh doanh trong KCN rất lớn. Nếu tính suất đầu tư bình quân 6,5 triệu USD/ha đất công nghiệp thì nhu cầu thu hút vốn đầu tư lấp đầy diện tích còn lại của các KCN của Việt Nam đã được quy hoạch khoảng 600 - 650 tỷ USD.

Tổng vốn đầu tư phát triển hạ tầng khu công nghiệp và lấp đầy các khu công nghiệp khoảng 670-720 tỷ USD.

Ngoài ra, còn phải tính đến nhu cầu vốn đầu tư đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, tái cấu trúc và chuyển đổi 293 khu công nghiệp hiện hữu thành các khu công nghiệp sinh thái để thực hiện mục tiêu tăng trưởng xanh theo cam kết của Chính phủ Việt Nam với cộng đồng quốc tế.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy còn rất nhiều khó khăn, hạn chế về tài chính cần phải được tháo gỡ nhằm hỗ trợ các KCN, KKT phát triển tương xứng với tiềm năng to lớn của mô hình này.

Những thách thức cần tháo gỡ

Theo ông Ngô Công Thành, Phó Chủ tịch Viện Nghiên cứu Đầu tư quốc tế (ISC), Phó Chủ tịch phụ trách nghiên cứu, tổng hợp của VIPFA cho biết, tình hình phát triển các KCN, KKT đang bộc lộ một số hạn chế cần được nhìn nhận đúng để có biện pháp tháo gỡ phù hợp.

Công tác quy hoạch phát triển KCN thiếu tầm nhìn tổng thể, dài hạn trong mối tương quan với các ngành khác. Các KCN được quy hoạch dàn trải, chủ yếu dựa trên đề nghị của địa phương chứ chưa gắn với quy hoạch, kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của vùng và cả nước. Còn khá nhiều KCN triển khai chậm do vướng giải phóng mặt bằng, suất đầu tư cao, chồng chéo về quy hoạch...

Hạ tầng kết nối đa phương tiện thiếu đồng bộ, mất cân đối khi vận tải đường bộ chiếm tới 77% tổng lượng hàng hóa vận chuyển của cả nước. Tiêu chuẩn kỹ thuật hạ tầng, nhà xưởng còn thấp.

Hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường KCN tại một số địa phương chưa đồng bộ. Việc vận hành các công trình bảo vệ môi trường chưa nghiêm túc, chưa tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về môi trường. Thậm chí một số địa phương chưa quy hoạch địa điểm lưu giữ, xử lý chất thải nguy hại, nguy cơ gây ô nhiễm môi trường cao.

Tỷ lệ các KCN đã đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung mới đạt 91%; nhu cầu cung cấp điện, nước cho sản xuất chưa đáp ứng được đầy đủ và ổn định, hiệu suất sử dụng năng lượng trong nhà máy còn thấp.

Hạ tầng xã hội, bao gồm nhà ở công nhân, các thiết chế văn hóa, thể thao, phúc lợi phục vụ người lao động trong KCN còn thiếu và chưa đồng bộ với phát triển KCN.

Chất lượng hiệu quả thu hút đầu tư vào KCN chưa đáp ứng yêu cầu phát triển theo chiều sâu; liên kết hợp tác trong KCN, KKT, giữa các khu với nhau và giữa KCN, KKT với khu vực bên ngoài còn hạn chế. Tính liên kết, hợp tác trong sản xuất còn thấp, chưa hình thành được các chuỗi sản xuất liên hoàn và các cụm liên kết ngành.

Các loại hình KCN chậm được đổi mới, phát triển chưa bền vững và cân bằng về kinh tế, xã hội, môi trường; hiệu quả sử dụng đất, sử dụng lao động chưa cao. Các địa phương và nhà đầu tư phát triển hạ tầng KCN trong nước vẫn ưu tiên tập trung thu hút lấp đầy KCN, chưa thực sự chú trọng tới cơ cấu ngành nghề, công nghệ, yếu tố môi trường và xã hội của dự án đầu tư. Do đó, hiệu quả đầu tư phát triển KCN chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra.

Chủ đầu tư các dự án kinh doanh hạ tầng KCN Việt Nam năng lực tài chính hạn chế, có tâm lý chờ đợi tìm được nhà đầu tư thứ cấp rồi mới đầu tư hạ tầng dùng chung trong KCN; trong khi nhà đầu tư nước ngoài lại muốn có mặt bằng, hạ tầng kỹ thuật ngay thì mới quyết định đầu tư. Sự giằng co, chờ đợi này đã khiến nhiều KCN có tỷ lệ lấp đầy thấp.

"Để huy động được nguồn vốn to lớn đầu tư vào các KCN trong những năm tới đòi hỏi phải có những thay đổi căn bản trong việc khai thông các dòng vốn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận thuận lợi các yếu tố sản xuất và đổi mới hoạt động xúc tiến đầu tư", ông Thành nhấn mạnh.

(Nguồn:mekongasean.vn)
Tin cũ hơn

Tạp chí QHXD

Ebook

Giới thiệu sách

Liên kết website