KTS. Phạm Thị Nhâm, Phó Viện trưởng
ThS. KTS. Nguyễn Thị Hồng Diệp (VIUP)
Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia (VIUP)
---------------------------------------------------------------------------
Lời nói đầu
Theo dự báo quốc gia, tỷ lệ đô thị hoá toàn quốc đến năm 2035 đạt 50% - 55% (năm 2017 là 35,03%). Việt Nam là quốc gia đang phát triển nên quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ ở các vùng đô thị lớn và khu vực nông thôn ven đô. Trên thực tế, các thành phố trực thuộc Trung ương như Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng, Hải Phòng, Cần Thơ, các đô thị loại I trong giai đoạn 2010-2020 có xu hướng mở rộng không gian từ trung tâm lõi đô thị ra ngoại vi. Khu vực ven các thành phố lớn thường là đầu mối gắn kết hoạt động sản xuất, thương mại giữa hai thị trường đô thị - nông thôn, cung cấp nguyên liệu, lao động cho đô thị, là nơi bố trí các đầu mối HTKT của đô thị cũng như các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội vùng, là cầu nối liên kết đô thị trung tâm với các đô thị vệ tinh khác trong vùng đô thị lớn.
Hiện nay, khu vực ngoại thành các đô thị lớn Việt Nam đang thiếu các định hướng và công cụ quản lý cho giai đoạn quá độ chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị. Đô thị hóa vùng nông thôn ven đô có nhiều biến động về nhân khẩu, đất đai dẫn đến cấu trúc nông thôn truyền thống bị phá vỡ đột ngột, hạ tầng quá tải gây nên những vấn nạn về môi trường; nhà ở, hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật chưa kịp đáp ứng nhu cầu; đất đai xây dựng dàn trải thiếu kiểm soát, mất đất nông nghiệp, an ninh trật tự xã hội mất ổn định là những hệ lụy đang diễn ra tại các khu vực ven đô các thành phố lớn.
1. Kinh nghiệm thành phố Hà Nội, kinh nghiệm về nông nghiệp đô thị
a. Vai trò nông nghiệp đô thị đối với thành phố Hà Nội
- Nông nghiệp đô thị góp phần cung ứng nguồn lương thực, thực phẩm tươi sống tại chỗ cho các đô thị;
- Nông nghiệp đô thị tạo việc làm và thu nhập cho một bộ phận dân cư sinh sống bằng sản xuất nông nghiệp nay bị mất đất do đô thị hóa như ở quận Long Biên, Cầu Giấy, Hoàng Mai, Tây Hồ…
- Nông nghiệp đô thị dễ tiếp cận các dịch vụ đô thị, mở ra cơ hội mới cho phát triển chiều sâu theo hướng nông nghiệp công nghệ cao.
- Nông nghiệp đô thị góp phần tạo cảnh quan, giảm ô nhiễm môi trường và cải thiện sức khỏe cộng đồng.
Với việc mở rộng diện tích thành phố năm 2008, Hà Nội đã và đang ưu tiên phát triển nông nghiệp cả ở nội thị và ngoại thị. Đối với nội thị, nông nghiệp tồn tại trong đô thị và vùng ven ở nước ta đã có từ xa xưa, chỉ riêng Hà Nội đã có húng Láng, rau Tây Tựu, hoa Ngọc Hà, đào Nhật Tân, cá rô Đầm Sét, tôm cá Hồ Tây, rau muống trong ao hồ, kênh mương… Có một xu thế đang diễn ra rất mạnh hiện nay là nhiều gia đình ở Hà Nội cũng bắt đầu trồng rau để phục vụ bữa ăn gia đình.
Để có rau sạch, nhiều hộ đã trồng rau vào chậu cảnh, hộp xốp, thậm chí cải tạo cả tầng thượng thành một vườn rau, tận dụng mọi góc ngõ để các chậu rau, một số hộ bắt đầu trồng rau theo phương pháp thủy canh trên ban công và sân thượng. Các loại rau được trồng đa phần đều dễ chăm sóc như rau muống, rau lang, cải cúc kèm với rau ăn sống như xà lách, rau diếp, rau má, tía tô, mùi tàu…
b. Kinh nghiệm tại phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm
Hà Nội với vai trò là thủ đô của cả nước, hiện đang là thành phố có tốc độ đô thị hóa cao nhất. Nhiều vùng ven đô, ngoại thành cũ nay được nằm trong quy hoạch của các khu vực đô thị, các trung tâm kinh tế, chính trị mới của thủ đô trong tương lai gần. Đô thị hóa đã mang lại nhiều yếu tố tích cực cho sự phát triển của khu vực này như hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư nâng cấp, khả năng tiếp cận của người dân với các tiện ích xã hội như văn hóa, y tế, giáo dục được nâng cao, thu nhập của người dân được cải thiện đáng kể…Tuy nhiên, đô thị hóa với tốc độ cao và mang tính tự phát cũng đã mang lại những ảnh hưởng tiêu cực đối với khu vực ven đô, ngoại thành cũ của thành phố. Quá trình đô thị hóa đã dẫn đến sự phá vỡ cấu trúc làng xã đã được xây dựng từ lâu đời, làm mai một các yếu tố truyền thống. Đô thị hóa cũng là nguyên nhân cho sự suy thoái và thất truyền của những làng nghề và nghề truyền thống cùng những sản phẩm đặc trưng, hay việc biến mất, thoái hóa của nhiều giống cây trồng đặc sản quý…
Trước đây không lâu, làng quê ven đô chủ yếu vẫn là trồng lúa, bên cạnh đó còn sản xuất rau mầu, hoa quả để cung cấp cho nội thành. Ngay cả những làng nghề khi chưa phát triển tập trung thành phường phố như ở những phố cổ thì hình ảnh làng quê cũng không khác là bao so với làng quê ở các tỉnh. Nhưng sau hơn 10 năm đô thị hóa, nhiều làng ngoại thành của Hà Nội đã bị đô thị hóa hoàn toàn, chỉ còn lại dấu tích của những đình chùa xưa như làng Nghĩa Đô.
Làng Minh Khai trước đây là một xã thuộc huyện Từ Liêm cũ, là khu vực có tốc độ phát triển cao nhất của thành phố Hà Nội. Từ lâu địa danh này đã nổi tiếng với 2 loại trái cây đặc sản là cam Canh và bưởi Diễn. Theo định hướng Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2050 được phê duyệt tại Quyết định số 1259/QĐ-TTg, Minh Khai là một làng nằm trong hành lang sông Nhuệ.
Tuy nhiên, ngày 27 tháng 12 năm 2013, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 132/NQ-CP, theo đó huyện Từ Liêm được tách thành quận Nam Từ Liêm và Bắc Từ Liêm, xã Minh Khai theo đó trở thành phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm. Như vậy, có thể thấy trong tương lai tại đây sẽ là nơi diễn ra sự tranh chấp một cách rất mạnh mẽ giữa nông thôn và đô thị.
Minh Khai có các đặc điểm về hiện trạng sử dụng đất, kinh tế xã hội, lao động như sau :
Với những đặc trưng nêu trên, việc đưa Minh Khai trở thành một “Làng đô thị” theo định hướng phát triển nông nghiệp đô thị đặc thù với 2 loại trái cây đặc sản là rất thuận lợi. Tuy nhiên, từ lâu, nông nghiệp là mô hình kinh tế cho giá trị sản xuất thấp nhất trong các mô hình sản xuất. Chính vì vậy, để tạo động lực phát triển, chúng ta cần phải có giải pháp nâng cao giá trị cho nông nghiệp mà ở đây việc kết hợp giữa phát triển nông nghiệp với du lịch nông thôn là một giải pháp phù hợp.
* Mô hình chung đề xuất như sau:
Phát triển kinh tế Minh Khai bằng mô hình sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hiện đại kết hợp thương mại dịch vụ và du lịch nông thôn, cụ thể: tập trung phát triển 2 loại cây ăn quả đặc sản cam Canh và bưởi Diễn theo hướng công nghiệp hiện đại kết hợp phát triển du lịch nông thôn và các dịch vụ kèm theo như: nghỉ dưỡng cuối tuần, ẩm thực… Trong đó phát triển cân đối hài hòa giữa 2 mô hình trồng trọt theo dạng cá thể và tập trung.
+ Khoanh vùng cải tạo, quản lý đối với khu vực làng xóm hiện trạng nhằm hạn chế gia tăng mật độ cư trú ở khu vực này đồng thời bố trí quỹ đất ở mới đáp ứng cho sự phát triển, gia tăng dân số.
Diễn giải |
HTX Giang Biên (ha) |
HTX Đồng Tâm (ha) |
Tổng |
Diện tích canh tác nông nghiệp |
75.8 |
8.7 |
98.5 |
Diện tích canh tác được khai thác |
|
4 |
|
Số hộ xã viên |
385 |
203 |
601 |
Loại cây trồng |
Lúa: 36 Chuối 34 Khác (Bưởi, nhãn, ổi) |
Rau là cây trồng chính Một số cây ăn quả |
|
+ Khoanh vùng chức năng cho đất sản xuất nông nghiệp với các loại hình chức năng sử dụng đất khác nhằm đảm bảo quỹ đất cho sản xuất nông nghiệp.
+ Bố trí các hạng mục công trình hạ tầng xã hội đầy đủ theo tiêu chuẩn đô thị.
+ Tổ chức thêm không gian trưng bày, giới thiệu các sản vật địa phương.
+ Quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật.
c. Mô hình trồng rau sạch quận Long Biên
Quận Long Biên là một trong những quận đứng đầu của thành phố Hà Nội thành công trong việc lựa chọn mô hình trồng rau sạch cung cấp cho thị trường tiêu dùng của thành phố.
* Những vấn đề mà HTX đã làm được:
- Lựa chọn vấn đề cốt lõi để can thiệp
+ Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế hợp tác kiểu mới của nông dân để giải quyết vấn đề SXKD theo chuỗi, nền tảng để thích ứng với kinh tế thị trường & hội nhập.
+ Nâng cao năng lực kĩ thuật và quản lý kinh doanh cho nông dân thu nhập thấp thông qua các nhóm/tổ hợp tác, hợp tác xã.
+ Nâng cao năng lực tiếp cận thị trường bao gồm quảng bá sản phẩm và đa dạng hóa các kênh phân phối tới người tiêu dùng nhằm tăng thêm giá trị thặng dư cho người sản xuất và an toàn cho người tiêu dùng.
- Đào tạo cho cán bộ nòng cốt của HTX
- Tuyên truyền trong cộng đồng về HTX 2012
Qua ví dụ thực tế của TP Hà Nội cho thấy những vấn đề gặp phải như sau:
2. Mô hình trồng rau an toàn TP.HCM
Trong bối cảnh người trồng lúa sản xuất không hiệu quả do giá trị kinh tế thấp và thường xuyên bị thiên tai dịch bệnh hoành hành, các hộ dần dần chuyển sang sản xuất rau an toàn do vốn đầu tư ít và thời gian sản xuất ngắn nên hiệu quả hơn. Tuy nhiên do sản xuất cá thể nên gặp nhiều khó khăn khi tiêu thụ sản phẩm, lúc rau có giá cao thì thương lái kiếm mua, thị trường xuống giá thì thương lái không mua đành đổ cho cá ăn. Trước tình hình đó, nhiều hộ nông dân đã liên kết lại với nhau, từ đó nhiều HTX và tổ hợp tác ra đời. Các hình thức liên kết này đã mang lại hiệu quả cao từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ.
Một trong những mô hình điển hình có thể nhắc đến trên địa bàn thành phố là HTX Phước An. Được thành lập vào năm 2006 tại huyện Bình Chánh, tiêu chí hoạt động của HTX là nói không với cách làm ăn dối trá, gây hại cho sức khỏe cộng đồng. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn TP.HCM, Chi cục Bảo vệ thực vật, Trung tâm Tư vấn hỗ trợ nông nghiệp, Trạm Khuyến nông Bình Chánh… đã quan tâm hỗ trợ, cử các chuyên viên tập huấn cho bà con nông dân sản xuất rau an toàn, áp dụng khoa học kĩ thuật tiên tiến, có kiểm tra giám sát chặt chẽ, hướng dẫn cụ thể cho nông dân để đảm bảo cây rau không còn tồn đọng bất kì chất gì gây nguy hại sức khỏe người tiêu dùng. Đồng thời, kiểm tra nguồn nước phải sạch đảm bảo không có vi khuẩn gây bệnh; nếu còn tồn đọng các chất nguy hại thì HTX tuyệt đối không nhập lô hàng đó để xuất ra thị trường.
Ngoài ra, HTX thường xuyên được chính quyền hỗ trợ nguồn vốn khoảng 20 triệu đồng/hộ với lãi suất 0,6%/tháng mà không cần thế chấp. Khoảng một thời gian ngắn, các hộ nông dân đã dần dần hình thành nên thói quen sản xuất rau an toàn. Họ luôn ghi nhật kí kiểm tra đồng ruộng và bám sát theo cây rau, cũng từ đó mà gây được lòng tin đối với khách hàng. Các siêu thị lớn của TP.HCM như Coop Mart, Metro, Vinatex Mart… cũng ngày càng đặt hàng nhiều hơn.
Tính đến năm 2011, HTX đã hoạt động được 4 năm, số xã viên từ 7 tăng lên 15 người; vốn ban đầu từ 11,5 triệu đồng lên 146,5 triệu đồng. Từng bước HTX sẽ củng cố và mở rộng hợp tác với các đối tác lớn hơn để đưa cây rau an toàn đến cộng đồng. HTX thường xuyên được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mời tham gia các báo cáo mô hình nông nghiệp đô thị tại nhiều địa phương.
Kiến nghị cho các đô thị khác
3. Nông nghiệp đô thị (NNĐT) ở Bình Dương
Bình Dương là một trong những tỉnh có tốc độ ĐTH cao nhất nước. Chính vì thế, NNĐT sớm được tỉnh quan tâm, giá trị sản xuất nông nghiệp vẫn liên tục tăng cao. Có thể lấy thành phố Thủ Dầu Một làm ví dụ điển hình cho những bước phát triển mạnh mẽ của NNĐT.
Do quá trình ĐTH, diện tích đất nông nghiệp của thành phố chỉ còn khoảng 2.655ha, chiếm 22% diện tích đất tự nhiên và chỉ còn 4.118 lao động phục vụ cho nông nghiệp.
Tuy nhiên, giá trị nông - lâm - thủy sản của thành phố đạt 50,6 tỷ đồng, giá trị sản lượng bình quân trên 1ha canh tác/năm đạt đến 69,4 triệu đồng. Đây là nỗ lực chuyển dịch từ cây có giá trị kinh tế thấp (như cây lúa, mía, vườn tạp) chuyển sang cây có giá trị kinh tế cao phù hợp với sản xuất NNĐT như trồng rau màu, hoa lan, cây cảnh, vườn cây ăn quả... Các hộ dân chăn nuôi nhỏ lẻ cũng đã chuyển sang chăn nuôi tập trung với mô hình lớn hơn ở hộ gia đình và trang trại (phát triển theo hướng công nghiệp, bán công nghiệp).
4. Nông nghiệp đô thị ở Đà Nẵng
Là một trong những địa phương có những mô hình NNĐT khá độc đáo. Mấy năm gần đây, nhất là khi chỉ thị của UBND thành phố Đà Nẵng về cấm nuôi gia súc, gia cầm ở khu vực nội thị có hiệu lực, việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng - vật nuôi diễn ra khá sôi động.
Thành quả đáng kể nhất là nghề làm sinh vật cảnh, trồng rau mầm, nấm ăn phát triển nhanh, nông dân không chỉ tạo ra sản phẩm có giá trị mà còn có cơ hội làm giàu. Cũng từ đây, hàng trăm nông dân tiếp cận với nghề trồng hoa, cây cảnh. Trung tâm Khuyến ngư - nông - lâm Đà Nẵng cùng Phòng Kinh tế quận Hải Châu đã mở hàng chục lớp tập huấn kĩ thuật cho nông dân. Nhờ vậy, mô hình trồng hoa cây cảnh ở Đà Nẵng phát triển rất nhanh. Hiện quận, huyện nào cũng có Hội Sinh vật cảnh và khu trưng bày sản phẩm. Có hộ trồng tới 10.000 chậu cúc/vụ, hơn 5.000 gốc mai cảnh, thu nhập 300 - 400 triệu đồng/năm. Trên địa bàn thành phố có khoảng 300 hộ hoạt động trong lĩnh vực này, tạo ra lượng của cải trị giá 30 - 40 tỷ đồng/năm. Ngoài nghề trồng hoa, cây cảnh, việc sản xuất rau xanh phục vụ cho thành phố cũng được ưu tiên phát triển và mang lại hiệu quả cao.
5. Nông nghiệp đô thị ở tại Đà Lạt (Lâm Đồng)
Không chỉ mang lại lợi ích xã hội, NNĐT còn mang lại lợi ích kinh tế khá lớn. Ở vị trí cửa ngõ thành phố Đà Lạt, xã Hiệp An có lợi thế về giao thông, thuỷ lợi, đất đai phì nhiêu… Thực hiện chủ trương phát triển nông nghiệp công nghệ cao, từ năm 2004, xã Hiệp An được tỉnh đầu tư xây dựng các mô hình thí điểm trồng rau, hoa trong nhà kính, nhà lưới.
Hàng trăm ha đất trồng lúa của xã trước đây đã được chuyển sang trồng rau, hoa. Có những hộ chuyên trồng các loại hoa cao cấp như layơn, hồng, đồng tiền, địa lan… thu nhập mỗi năm vài trăm triệu đồng. Trước đây, chủ yếu trồng rau để bán cho thị trường nội địa, nhưng nay đã có rau thương phẩm chất lượng cao phục vụ xuất khẩu.
Trên đây là một số mô hình đã và đang phát triển, là những bài học tốt cho các đô thị khác của Việt Nam trong quá trình hình thành phát triển mô hình kinh tế cho khu vực vùng ven bền vững.
Tài liệu tham khảo
Trong nước
1. Phạm Hùng Cường (2001). Chuyển đổi cấu trúc làng xã vùng ven đô thị lớn đồng bằng sông Hồng thành đơn vị ở trong quá trình đô thị hóa.
2. Bùi Văn Tuấn (2011), Đô thị hóa và những vấn đề xã hội vùng ven đô Hà Nội hiện nay, trường hợp nghiên cứu xã Mễ Trì, Từ Liêm, Hà Nội, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, ĐHQG Hà Nội.
3. Trương Hoàng Thái An (2017). Định hướng phát triển không gian vùng ven đô TP. HCM.
4. Lê Thị Thanh Hằng (2018). Quy hoạch xây dựng ngoại thành TP.HCM theo hướng phát triển bền vững.
5. Võ Hữu Hòa (2011). Phát triển nông nghiệp đô thị: Hướng đi bền vững cho các đô thị trong tiến trình đô thị hoá.
6. Phạm Sỹ Liêm. (2009). Nông nghiệp đô thị trong quy hoạch thành phố Hà Nội. Bài trình bày tại Hội thảo “Hà Nội: thành phố thân thiện và sống tốt cho cộng đồng”. 1 -2/7/2009.
7. Bùi Văn Tuấn (2013), “Đô thị hóa tác động đến sinh kế của cộng đồng dân cư vùng ven đô Hà Nội” Mã số: QG.14.63. Đề tài cấp ĐHQG Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Huân (2012): Liên kết vùng từ lý luận đến thực tiễn.
9. Trần Trọng Hanh (2015): Quy hoạch vùng - Nhà xuất bản Xây dựng.
10. Trường Đại học Kinh tế TP.HCM: Các phương pháp phân tích vùng và liên vùng - Tài liệu dịch, 2008.
11. Chiến lược của các vùng đô thị lớn - Tài liệu dịch tiếng Pháp
12. Nguyễn Hoàng Linh (2018): Nghiên cứu lý luận về vùng ven đô đề cập đến kết cấu vùng và cơ chế hình thành, diễn biến phát triển của vùng ven đô.
13. Quy hoạch chung thủ đô Hà Nội; Quy hoạch chung thành phố Đà Nẵng; Quy hoạch chung thành phố Đà Lạt
14. Bộ NN&PTNT, 2014, Báo cáo tổng kết ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn các năm 2013 và 2014.
15. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2013, Báo cáo tóm tắt tình hình thực hiện nhiệm vụ công tác năm 2013, kế hoạch công tác năm 2014.
16. Bộ Xây dựng, 2014, Báo cáo tình hình thực hiện các chỉ tiêu về tài nguyên - môi trường tại văn bản số 2031/BXD - KHCN ngày 28 tháng 8 năm 2014.
17. Cục Kiểm soát ô nhiễm - Tổng cục Môi trường, 2013, Dự án “Kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề”.
18. Văn phòng điều phối Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, Bộ NN&PTNT, 2014, Hướng dẫn theo dõi và đánh giá kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới 2010-2020.
Quốc tế
1. Metropolitan Governance and Planning in Transition, Asia Pacific Cases - NCRD & NCUA, Nagoya Japan (1998).
2. TOR EAP Sustainable Development on the Urban Fringe - IURD, UC Berkely (2005).
3. Peri - Urbanisation in Europe/PLUREL (2010).
4. Mariassunta Galli, Sylvie Lardon, Elisa Marraccini, Enrico Bonari: Agricultural management in peri-urban areas (2009).