SOME CHALLENGES IN THE PROCESS OF MANAGEMENT AND DEVELOPMENT OF URBAN FUNCTIONAL AREAS IN THE CONTEXT OF THE COUNTRY'S DEVELOPMENT ORIENTATION TO BECOME A MODERN INDUSTRIAL COUNTRY
ThS. Nguyễn Huy Hùng
Khoa Công trình, Trường Đại học GTVT
Tóm tắt: Trên thực tế công tác quản lý phát triển các khu chức năng đô thị là công việc tương đối khó khăn, phức tạp. Bài báo chỉ ra một số thách thức cần giải quyết trong quá trình quản lý phát triển các khu chức năng đô thị trong bối cảnh định hướng phát triển của đất nước trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Summary: In fact, the management and development of urban functional areas is a relatively difficult and complicated job. The article points out some challenges that need to be resolved in the process of managing the development of urban functional areas in the context of the country's development orientation to become a modern industrial country.
Từ khóa: khu chức năng đô thị, quản lý phát triển đô thị.
Keywords: urban functional areas, urban development management.
1. KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Khu chức năng trong đô thị
Theo quy định tại Điểm a, Khoản 1, Điều 28 - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch 2018 thì: Khu chức năng bao gồm khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao; khu du lịch; khu nghiên cứu, đào tạo; khu thể dục thể thao [3].
Như vậy, trong đô thị có nhiều khu chức năng; các chức năng thường được tổ hợp và bố cục tạo thành ba khối chính phục vụ cho nhu cầu của con người là khối làm việc (nhà máy, xí nghiệp, công sở...), khối sinh hoạt (nhà ở) và khối nghỉ ngơi, giải trí (công trình dịch vụ công cộng, vườn hoa, công viên...). Mỗi khu chức năng được ví như một mảnh ghép không thể thiếu của một đô thị hoàn chỉnh.
Tại Điểm c của [3] thì: Quy hoạch xây dựng khu chức năng là việc tổ chức không gian kiến trúc cảnh quan, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong phạm vi một khu chức năng. Quy hoạch xây dựng khu chức năng gồm quy hoạch chung xây dựng, quy hoạch phân khu xây dựng và quy hoạch chi tiết xây dựng.
Như vậy, có thể hiểu đơn giản, quy hoạch và quản lý các khu chức năng trong đô thị bao gồm quy hoạch, quản lý trong nội bộ các khu chức năng và quy hoạch, quản lý tổng thể các khu chức năng với nhau.
1.2. Quản lý đô thị (bao gồm quản lý các khu chức năng trong đô thị)
Trên thực tế, việc quản lý phát triển đô thị, dưới các cấp độ và phương thức khác nhau, đã tồn tại cùng với lịch sử loài người kể từ khi có hình thái đô thị ra đời. Tuy vậy, cụm từ “quản lý phát triển đô thị” hay rộng hơn là “quản lý đô thị” mới được nhắc đến nhiều tại Việt Nam trong khoảng hơn 20 năm trở lại đây, khi mà các đô thị Việt Nam bước qua giai đoạn kiến thiết và bắt đầu hé lộ các động lực phát triển kinh tế. Trong quá trình đó, việc xây dựng và quản lý phát triển đô thị đã vấp phải rất nhiều khó khăn do thiếu kinh nghiệm, năng lực hạn chế, sự thiếu linh hoạt của thể chế cũng như hành lang pháp lý chưa hoàn chỉnh.
Quản lý đô thị là một công việc phức tạp, đây là một quá trình hoạt động để đi đến mục tiêu đảm bảo cho đô thị phát triển ổn định bền vững, đảm bảo hài hòa giữa lợi ích quốc gia cộng đồng với lợi ích cá nhân cả trước mắt và lâu dài. Quản lý đô thị thường bao gồm Quản lý hành chính Nhà nước (hay hành chính công, đây là nghiệp vụ đảm bảo sự vận hành của đô thị trên tất cả các lĩnh vực) và Quản lý kỹ thuật đô thị (đây là nghiệp vụ của các nhà chuyên môn kỹ thuật đô thị nhằm đảm bảo sự hoạt động của hệ thống kỹ thuật hạ tầng đô thị).
1.3. Định hướng phát triển của đất nước trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Trong Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 có chỉ rõ:
- Mục tiêu tổng quát: đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tầm nhìn đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại;
- Mục tiêu cụ thể đến năm 2030: Tỉ trọng công nghiệp trong GDP đạt trên 40%; tỉ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP đạt khoảng 30%, trong đó công nghiệp chế tạo đạt trên 20%. Tỉ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp công nghệ cao trong các ngành chế biến, chế tạo đạt tối thiểu 45%...
Trong Mục 1 phần III của Nghị quyết cũng chỉ ra để đạt được mục tiêu đề ra thì cần phải có chính sách phân bổ không gian và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp, cụ thể: cần “Thực hiện điều chỉnh phân bố không gian công nghiệp phù hợp với yêu cầu cơ cấu lại các ngành công nghiệp và phát triển các ngành kinh tế trên từng vùng, từng địa phương theo hướng tập trung, không dàn đều theo địa giới hành chính, bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường, quốc phòng, an ninh”.
Như vậy, có thể nói công tác quản lý phát triển các khu chức năng đô thị cũng sẽ chịu ảnh hưởng lớn và cần bám sát định hướng trên để có những ứng xử phù hợp cho mỗi giai đoạn phát triển cụ thể.
2. MỘT SỐ THÁCH THỨC TRONG QUÁ TRÌNH QUẢN LÝ PHÁT TRIỂN CÁC KHU CHỨC NĂNG ĐÔ THỊ TRONG BỐI CẢNH ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC TRỞ THÀNH NƯỚC CÔNG NGHIỆP THEO HƯỚNG HIỆN ĐẠI
2.1. Thách thức từ những tồn tại chung trong các đô thị hiện nay
Các đô thị của chúng ta hiện nay, đặc biệt là các đô thị lớn, trong quá trình phát triển đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thách thức đến từ cả hai nguyên nhân chủ quan và khách quan. Có thể chỉ ra một số trong đó như: sự thiếu hụt về cơ sở hạ tầng; vấn đề về y tế, sức khỏe người dân; ngập lụt, hạn hán và ô nhiễm môi trường; chênh lệch giàu nghèo, bất bình đẳng trong xã hội; vấn đề về việc làm và các tệ nạn xã hội... Đây là những khó khăn, thách thức rất lớn cần giải quyết trong quá trình quản lý phát triển đô thị nói chung và quản lý phát triển các khu chức năng nói riêng, bởi nó đang diễn ra cùng lúc, đan xen nhau gây suy giảm các tiềm lực về kinh tế, tài nguyên, con người và cơ sở hạ tầng đô thị.
2.2. Thách thức từ thực tế tốc độ đô thị hóa đang diễn ra quá nhanh
Việt Nam là quốc gia có tốc độ đô thị hóa nhanh trong khu vực Đông Nam Á, mỗi năm có thêm khoảng 1,3 triệu dân số đô thị, dự kiến đến năm 2025 sẽ đạt khoảng 52 triệu người, chiếm 50% dân số cả nước (riêng ở hai đô thị lớn là Hà Nội và TP.HCM dân số chiếm tới trên 30% dân số đô thị cả nước) [1].
Quá trình đô thị hóa nhanh chóng dẫn đến hạ tầng đô thị bị quá tải, mất cân bằng sinh thái và sự phát triển kinh tế - xã hội không theo kịp, không tương xứng với tỷ lệ tăng trưởng dân số khi mà thực tế việc di cư từ các đô thị nhỏ, vừa và các vùng nông thôn vào các đô thị lớn không có khả năng kiểm soát. Hệ quả là hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị xuống cấp nhanh chóng, đặc biệt là vấn đề nhà ở và vệ sinh môi trường ngày càng nan giải, xuất hiện nhiều vấn đề xã hội cần giải quyết. Đô thị hóa nếu thiếu kiểm soát sẽ tạo nên sự phát triển giả tạo, gây quá tải trong các đô thị lớn và tình trạng nghèo đói ở đô thị. Tất cả những điều này làm cho tính ổn định của các khu chức năng đô thị, về mọi mặt, luôn có nguy cơ bị phá vỡ (ví dụ sự phá vỡ về địa giới hành chính, về cơ cấu lao động việc làm, về thành phần dân cư và tính đặc thù của mỗi khu chức năng…) mang đến nhiều khó khăn cho công tác quản lý phát triển các khu chức năng này.
2.3. Thách thức từ hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh và trình độ quản lý còn nhiều hạn chế
Hệ thống pháp luật của nước ta cho đến nay đã không ngừng hoàn thiện và phát triển cơ bản cân đối trên mọi lĩnh vực tạo nhiều thuận lợi cho việc thực thi pháp luật trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước [2]. Tuy vậy, bên cạnh những kết quả đạt được, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật cũng như trình độ quản lý của đội ngũ thực thi pháp luật ở nước ta vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, có thể kể đến như:
- Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự đồng bộ, tính thống nhất chưa cao, còn cồng kềnh với nhiều hình thức, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành, một số nội dung còn chồng chéo, mâu thuẫn;
- Tính dự báo, khả thi của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, chi phí tuân thủ pháp luật còn cao, nhiều dự án luật có vòng đời ngắn;
- Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về pháp luật chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ quản lý nhà nước;
- Tư duy về việc sử dụng các loại nguồn khác mà đặc biệt là án lệ ở nước ta nhìn chung còn lạc hậu, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của Nhà nước pháp quyền trong xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế…
Những tồn tại, hạn chế nêu trên có thể gây ra những khó khăn không nhỏ, nói riêng đối với công tác quản lý phát triển các khu chức năng đô thị, ví dụ như có thể làm kéo dài thời gian của các giai đoạn tiến hành dự án dẫn đến chậm tiến độ, đội chi phí và tình trạng tham nhũng, lãng phí các nguồn lực có thể xảy ra.
3. KẾT LUẬN
Như vậy, công tác quản lý phát triển các khu chức năng đô thị là tương đối phức tạp, cần sự thay đổi linh hoạt bởi những khó khăn đến từ các vấn đề thuộc về thực trạng cũng như đến từ yêu cầu cần phải thay đổi để phù hợp, thích ứng với định hướng phát triển của đất nước ở mỗi giai đoạn cụ thể.
Với định hướng phát triển đất nước trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, một số vấn đề liên quan đến công tác quản lý phát triển các khu chức năng đô thị cần đặc biệt chú ý, đó là:
- Vấn đề dịch chuyển cơ cấu ngành nghề lao động, từ các ngành nghề khác sang các ngành nghề thuộc lĩnh vực công nghiệp kéo theo đó là các vấn đề về dân cư, về đào tạo nghề và chuyển giao công nghệ sẽ diễn ra mạnh mẽ;
- Việc không ngừng xuất hiện các khu chức năng đô thị liên quan đến các lĩnh vực công nghiệp được xây dựng;
- Vấn đề về môi trường sống, môi trường xã hội và các vấn đề khác có liên quan.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bộ môn Công trình GTCC&MT. Bài giảng nhập môn ngành Quản lý đô thị và công trình, 2023.
[2]. Internet: https://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/xay-dung-phap-luat.aspx?ItemID=711
[3]. Quốc hội nước CHXHCNVN. Luật số 35/2018/QH14: “Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của 37 Luật có liên quan đến quy hoạch”.
[4]. Nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tạo động lực phát triển đô thị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững”.