Triển vọng phát triển của mô hình khu kinh tế ven biển trong bối cảnh kinh tế Việt Nam và Thế giới

PGS.TS. Nguyễn Chu Hồi

Phó chủ tịch thường trực Hội Nghề cá Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Kinh tế và Quy hoạch thủy sản; nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam

Mở đầu

Việt Nam là một quốc gia biển với sự phân hóa lãnh thổ theo tỷ lệ cứ một phần đất có ba phần biển, và cứ một trăm kilômet vuông lãnh thổ đất liền có một kilômet chiều dài đường bờ biển với nhiều đảo, trong đó có hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa. Phần lãnh thổ đất liền của Việt Nam có lợi thế “mặt tiền” hướng biển, kéo dài theo hướng á kinh tuyến và hẹp chiều ngang. Cho nên, yếu tố biển, cả tự nhiên và phát triển, đều có thể ảnh hưởng sâu vào nội địa, đến mọi miền đất nước. Biển và vùng ven biển, vì thế, đã trở thành không gian sinh tồn và phát triển của các dân tộc Việt, tạo ra thế và lực trong sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển đảo của đất nước từ bao đời.

Ngày nay, biển là địa bàn chiến lược, là phần Tổ quốc thiêng liêng không tách rời của nước ta trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Vì vậy, tiến ra biển là xu thế tất yếu của dân tộc ta để tìm kiếm và đảm bảo các nhu cầu về an ninh quốc gia, an ninh năng lượng và lương thực, thực phẩm... cho tương lai. Đó là một hướng đi đúng, một cách nhìn xa, trông rộng, phù hợp với bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới để biến lợi thế của biển thành lợi ích của đất nước. Vùng ven biển được xác định là vùng “kinh tế động lực” và phát triển các khu kinh tế biển (nằm ở ven biển và trên đảo ven bờ) được xem là một trong 5 lĩnh vực kinh tế biển cần ưu tiên đầu tư phát triển mạnh đến năm 2020[1]. Theo đó, các khu kinh tế biển (KKTB) được kỳ vọng trở thành các cực động lực hướng biển, kết nối bờ với biển, với đảo và tạo các “mũi đột phá” trong hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển.

Sau hơn mười năm triển khai chủ trương nói trên, bước đầu đã hình thành được một loạt KKTB phân bố dọc ven biển cả nước và trên một số đảo ven bờ. Các KKTB này đã có những đóng góp nhất định cho kinh tế quốc dân; một số KKTB đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế của một số địa phương ven biển. Tuy nhiên, các KKTB hiện nay cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức đòi hỏi phải khắc phục bằng các giải pháp và quyết tâm chính trị mới. Bài viết này lạm bàn về triển vọng và giải pháp phát triển mô hình KKTB trong bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới.

1. Tổng quan về mô hình khu kinh tế biển trên thế giới và ở Việt Nam

Trên thế giới, từ rất sớm, thậm chí từ thời cổ đại, đã manh nha hình thành mô hình đặc khu kinh tế ở Trung Quốc và Hy Lạp. Muộn hơn, các “cảng tự do” đã ra đời ở châu Âu, còn ở Nhật Bản là hình thức “thương mại nhượng địa”[2]. Sau này, từ thế kỷ 19, các chiến lược gia và các nhà kinh tế đã quan tâm đến khai thác các lợi thế cạnh tranh vùng, tạo cơ sở hình thành các vùng kinh tế trọng điểm và cụ thể hóa dưới nhiều dạng khu kinh tế có tên gọi khác nhau. Theo Adam Smith (1997), để tạo ra sự khởi sắc nhanh chóng cho nền kinh tế, cần khai thác triệt để lợi thế canh tranh của các vùng, đặc biệt là vùng ven biển, ven sông. Lợi thế so sánh của một vùng lãnh thổ bắt nguồn từ các lợi thế về điều kiện tự nhiên có thể tạo thuận lợi cho phát triển hơn những vùng khác, nên vùng này sẽ trở thành những vùng kinh tế động lực, có sức lan tỏa đến các vùng khác. Hiện có tới 3.000 đặc khu kinh tế (khu kinh tế tự do) ở 116 nền kinh tế, thu hút khoảng 43 triệu người làm việc.[3]

Mức độ thành công của các mô hình khu kinh tế này còn ở mức khác nhau, nhưng đều có các đặc điểm chung là: Ví trí địa lý hấp dẫn; Kết cấu hạ tầng thuận lợi; Luật pháp và các chính sách rõ ràng, ổn định; Có nguồn lao động đủ về số lượng, đáp ứng về chất lượng; Có sự đảm bảo về xã hội và điều kiện làm việc;  Chất lượng dịch vụ cao; Logistics; Hệ thống công nghệ thông tin tốt; Có sự hợp lực tốt giữa trong và ngoài khu kinh tế; Được thúc đẩy mạnh mẽ bởi quá trình toàn cầu hóa.[4] Các khu kinh tế thành công và được xem như hình mẫu của thế giới, như: Thâm Quyến (Trung Quốc), Dubai (Các Tiểu Vương quốc Arab Thống nhất) và Incheon (Hàn Quốc) với các yếu tố làm nên thương hiệu là: quy mô lớn, hạ tầng chuẩn và rất hiện đại, hấp dẫn các nhà đầu tư lớn với công nghệ tiên tiến và thể chế kinh tế đẳng cấp quốc tế, tốc độ phát triển nhanh, các công trình sang trọng, có quy hoạch rõ ràng, mục tiêu cụ thể, tư duy toàn cầu, hướng tới hiện đại nhằm thu hút FDI và chuẩn mực về môi trường...

Tương tự khái niệm khu kinh tế (KKT), khu kinh tế biển (KKTB) là khu vực ven biển, đảo có ranh giới địa lý xác định, có không gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho các nhà đầu tư. Đây là những khu vực phát triển tổng hợp các ngành, nghề biển, như: hậu cần nghề cá và chế biến thủy sản; công nghiệp gắn với cảng biển, vận tải biển và logistics; du lịch biển; đô thị hóa, thương mại - dịch vụ và khoa học - công nghệ về biển;...[5] Theo quy định, một KKT phải có diện tích tối thiểu là 10 ngàn hecta (100km²), có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế khu vực (có cảng biển nước sâu hoặc gần sân bay), kết nối thuận lợi với các trục giao thông huyết mạch của quốc gia và quốc tế; dễ kiểm soát và giao lưu thuận tiện với trong nước và nước ngoài; có điều kiện thuận lợi và nguồn lực để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật[6]. Do điều kiện thành lập như vậy, nên tất cả các KKTB hiện nay ở nước ta đều nằm ở ven biển và trên một số đảo lớn ven bờ, như: KKTB Vân Đồn trên đảo Cái Bầu, KKTB Phú Quốc trên đảo cùng tên.

Phát triển các KKTB ở nước ta vẫn còn là vấn đề mới mẻ, thậm chí tiếp tục được bàn thảo, xem như những “hòn ngọc thô” cần tiếp tục được gia công[7]. Có thể nói, ý tưởng xây dựng thí điểm các KKT (khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu và KKT ven biển) ở Việt Nam đã được đề xuất từ năm 1997 tại Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 4 (khóa VIII). Đối với kinh tế biển, KKT mở Chu Lai ở ven biển tỉnh Quảng Nam thành lập năm 2003 được xem là KKTB đầu tiên ở Việt Nam. Năm 2008, thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020[8], Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án "Quy hoạch phát triển các KKT ven biển của Việt Nam đến năm 2020”. Và đến tháng 12 năm 2012, tất cả 15 khu trong quy hoạch nói trên đều đã chính thức được thành lập với tư cách KKTB hoặc được hưởng quy chế ưu đãi như KKTB (Bảng 1).

Bảng 1. Các khu kinh tế biển của Việt Nam đến năm 2020

1. Khu kinh tế Vân Đồn (Quảng Ninh; thành lập 31/5/2006;  diện tích 55.133 ha)

9. Khu kinh tế Dung Quất (Quảng Ngãi; 21/3/2005; 45.332ha)

2. Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải (Hải Phòng; 10/1/2008; 21.600ha)

10. Khu kinh tế Nhơn Hội (Bình Định; 14/6/2005; 12.000ha)

3.  Khu kinh tế Nghi Sơn (Thanh Hóa; 15/5/2006; 106.000ha)

11. Khu kinh tế Nam Phú Yên (Phú Yên; 29/4/2008; 20.730ha)

4. Khu kinh tế Đông Nam Nghệ An (Nghệ An; 11/6/2007; 20.776ha)

12. Khu kinh tế Vân Phong (Khánh Hòa; 25/4/2006; 150.000ha)

5. Khu kinh tế Vũng Áng (Hà Tĩnh; 3/4/2006; 22.781ha)

13. Khu kinh tế Phú Quốc (Kiên Giang; 10/7/2013; 58.923ha)

6. Khu kinh tế Hòn La (Quảng Bình; 10/6/2008; 10.000ha )

14. Khu kinh tế Định An (Trà Vinh; 27/4/2009; 39.020ha)

7. Khu kinh tế Chân Mây-Lăng Cô (Thừa Thiên-Huế; 05/01/2006; 27.108 ha)

15. Khu kinh tế Năm Căn (Cà Mau; 23/11/2010; 11.000ha)

 

8. Khu kinh tế mở Chu Lai (Quảng Nam; 5/6/2003; 27.040ha)

Ghi chú: các khu “in đậm” là được ưu tiên đầu tư từ ngân sách Nhà nước.

Nguồn: Quyết định số 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020”

Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ cũng đồng ý bổ sung thêm 3 KKT ven biển vào quy hoạch nói trên, nhưng chưa đi vào hoạt động (Bảng 2). Như vậy, tổng số đã có 18 KKT ven biển được phê duyệt theo quy hoạch phát triển KKT ven biển với tổng diện tích mặt đất và mặt nước khoảng 730.553ha (khoảng 7.305,53km2), bằng khoảng 2,2% tổng diện tích cả nước[9]. Một số KKTB đã được địa phương và bộ/ngành đề xuất xây dựng, như: KKT Móng Cái - Hải Hà, KKT Quảng Yên (Quảng Ninh), KKT Kim Sơn (Ninh Bình), KKT Trần Đề (Sóc Trăng), KKT Gành Hào (Bạc Liêu). Ngoài ra, một số KKTB trên đảo có diện tích nhỏ hơn 10.000ha và không nằm trong danh sách các KKT ven biển được phê duyệt, như: KKT đảo Phú Quý, đặc khu kinh tế Côn Đảo. Năm 2020, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định điều chỉnh, bổ sung 4 KKTB vào Quy hoạch phát triển các KKT ven biển của Việt Nam đến năm 2020[10] (Bảng 2).

Bảng 2. Các KKTB được bổ sung vào quy hoạch đến năm 2020

Khu kinh tế

Địa điểm

Thời điểm thành lập

Diện tích (ha)

Đông Nam Quảng Trị

Quảng Trị

27/2/2010

23.460

Ven biển Thái Bình

Thái Bình

9/2/2011

30.583

Ninh Cơ

Nam Định

25/2/2011

13.950

Quảng Yên

Quảng Ninh

22/5/2020

13.303

Nhìn lại quá trình xây dựng và vận hành các KKTB ở nước ta thời gian qua có thể thấy công tác quy hoạch các KKTB chưa đáp ứng yêu cầu của Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Lợi ích quốc gia và lợi ích vùng, địa phương (tỉnh/thành phố trực thuộc TW) chưa được xem xét toàn diện trong quá trình quy hoạch KKTB; chủ yếu vẫn dựa vào nguồn ngân sách TW để xây dựng kết cấu hạ tầng; thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng quản lý và trình độ kỹ thuật tương ứng; liên kết vùng yếu và chưa tận dụng được lợi thế và chưa khắc phục được “yếu thế” của từng khu... Cách tiếp cận quy hoạch “nóng” và bệnh “hội chứng” trong phát triển các KKTB nói trên khiến cho nguồn đầu tư của Nhà nước, vốn đã hạn hẹp, lại thiếu tập trung, dàn trải nên cho hiệu quả thấp. Tiến độ xây dựng chậm, khả năng lấp đầy dự án quốc tế và thu hồi vốn gặp khó khăn, nên dự kiến khả năng thu hút đầu tư nước ngoài chiếm chủ yếu đã không xảy ra như mong đợi...

Thể chế kinh tế và chính sách khuyến khích phát triển KKTB không đồng bộ, chưa bao trùm, chưa có “độ mở” mong muốn và thuộc “đẳng cấp” thấp so với các mô hình KKTB quốc tế. Tiêu chuẩn công nghệ của các dự án đầu tư vào KKTB cũng đặt ra ở mức độ không cao nên có không ít dự án nhỏ, đẳng cấp công nghệ thấp, lạc hậu, thiếu thân thiện môi trường vẫn có thể “lọt lưới”, chen chân vào KKTB, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững. Sức ép về tiến độ cộng với những lý do trên khiến cho một số địa phương, đôi lúc bị ảnh hưởng của tư duy nhiệm kỳ, bằng mọi cách bảo đảm tỷ lệ “lấp đầy” dự án... Cần nhấn mạnh rằng, phát triển kinh tế biển phải dựa trên thế mạnh, tính đặc thù và việc phát huy lợi thế của biển, đảo và vùng ven biển nước ta trong bối cảnh cụ thể của khu vực Biển Đông, của biến đổi khí hậu và hội nhập kinh tế quốc tế về biển[11]. Chính vì thế, trên cơ sở phân tích bối cảnh quốc tế, kết quả 10 năm thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và thực trạng biển Việt Nam, Hội nghị lần thứ 8 (khóa XII) Ban Chấp hành TW Đảng đã yêu cầu phải phát triển bền vững kinh tế biển đến năm 2030.[12]

2. Toàn cầu hóa, tự do thương mại quốc tế và tác động đến mô hình KKTB tại Việt Nam

Để phát triển bền vững đất nước, Việt Nam đã đẩy mạnh quá trình toàn cầu hóa, hội nhập sâu rộng với các nền kinh tế khu vực và thế giới. Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta đang bước vào “sân chơi” mới của thế giới có nhiều biến động. Cùng với tích cực cải cách, tái cơ cấu nền kinh tế, Việt Nam đã chủ động tiếp cận các quy định thương mại quốc tế, tham gia thiết lập những chuẩn mực tiên tiến cho thương mại. Các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới đã phản ánh quyết tâm cải cách, đổi mới và ghi nhận thành tựu phát triển, sự trưởng thành về nhận thức và năng lực của Việt Nam sau quá trình 20 năm liên tục chủ động hội nhập kinh tế thế giới. Chủ trương như vậy được phản ánh rất rõ trong các văn kiện, từ Đại hội IX đến Đại hội XIII của Đảng.

Những năm gần đây, xu hướng gia tăng hoạt động bảo hộ xuất hiện ở nhiều nước trên thế giới. Từ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc và những tranh chấp về thương mại giữa các trung tâm kinh tế lớn của thế giới đến việc Mỹ đe dọa rút và đã rút khỏi một vài định chế quốc tế... Tuy vậy, “toàn cầu hóa” đã tiến rất xa và sâu rộng, và thực sự là một xu thế khách quan, không thể đảo ngược, dù bản thân nó còn rất nhiều hạn chế, khiếm khuyết.[13] Cần lưu ý rằng tiến trình toàn cầu hóa không diễn ra một cách tuyến tính mà có những bước nhảy vọt, gắn với các cuộc cách mạng trong lực lượng sản xuất xã hội loài người, đặc biệt là Cách mạng công nghiệp 4.0. Theo Nguyễn Mạnh Hùng (2021), bước phát triển mới của toàn cầu hóa gắn với sự bùng nổ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 tất yếu kéo theo những đổi mới, cải tổ, cải cách các định chế toàn cầu hiện có và có thể ra đời những định chế quản trị toàn cầu mới[14]. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) nhấn mạnh: “Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc... Cho nên, cần: đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn”[15].

Thực hiện các chủ trương nói trên, Hiệp định Thương mại song phương (BTA) Việt - Mỹ (ký năm 2000) không chỉ mở cửa cho hàng hóa Việt Nam vào thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, mà còn khởi đầu cho một cuộc cải cách sâu rộng, có tính cách mạng về thể chế thương mại của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế thế giới. Việc ký kết và thực thi Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA) sau nhiều năm đàm phán, Việt Nam đã cơ bản hoàn thành những mục tiêu quan trọng nhất trong Chiến lược đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA) giai đoạn 2010 - 2020. Các FTA thế hệ mới này góp phần giúp nước ta thiết lập được quan hệ đối tác bình đẳng, trên cơ sở đôi bên cùng có lợi với một số nền kinh tế phát triển nhất thế giới[16]. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu bị tác động nặng nề bởi cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và đại dịch COVID-19, hội nhập kinh tế quốc tế với hiệu ứng của 15 FTA đã góp phần đưa Việt Nam vào nhóm nhỏ các nền kinh tế thành công trong việc duy trì mức tăng trưởng dương[17].

Rõ ràng, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa và tự do thương mại quốc tế thời gian qua, ngoài giúp kinh tế Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và chỉ số vốn con người (HCI) tiếp tục được cải thiện, thì nguồn FDI và thương mại cũng phục hồi nhanh. Những chuyển biến tích cực nói trên chắc chắn cũng tác động mạnh đến các KKTB về mọi mặt. Năm 2020, xuất khẩu của nước ta đạt 281 tỷ USD, tăng 6,5% so với năm 2019, trong đó có phần đóng góp quan trọng của thương mại với các thị trường FTA mới ký kết. Với 15 FTA được thực thi đã cho phép hàng xuất khẩu của Việt Nam được hưởng thuế suất ưu đãi khi tiếp cận thị trường ở trên 50 quốc gia, bao gồm hầu hết các đối tác thương mại lớn nhất, chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu[18]. Theo Ngân hàng Thế giới (2020), giá trị xuất khẩu hàng hóa tăng mỗi tháng trong năm 2020 khoảng 9% - 13%, dòng vốn FDI vào đạt 16 tỷ USD trong thời gian từ tháng 01 đến tháng 6 năm 2020, tương ứng với mức giảm 15% so với cùng kỳ năm 2019 nhưng tốt hơn đáng kể so với mức suy giảm FDI toàn cầu theo ước tính của UNTAD (30-40%). Sản lượng công nghiệp chế biến chế tạo trong nước tăng 30% trong thời gian quý II/2020 và tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2,91%, là một trong số ít quốc gia trên thế giới tăng trưởng kinh tế dương nhưng đại dịch đã để lại những tác động dài hạn đối với các hộ gia đình[19].

Trong bối cảnh chung nói trên, các KKTB nước ta đã được hưởng các ‘hiệu ứng kéo theo”, trước hết là những thay đổi tích cực về tư duy và tầm nhìn. Cùng với nhận diện đúng các nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém nói trên, tầm nhìn hội nhập quốc tế đòi hỏi những thay đổi táo bạo hơn về đẳng cấp thể chế và công nghệ, về độ mở của cơ chế, chính sách để giúp các KKTB ổn định và tăng trưởng trở lại, đặc biệt vượt qua các tác động khốc liệt, khó lường của đại dịch Covid-19. Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng hơn và phấn đấu đạt mục tiêu “kép” trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19, đòi hỏi Việt Nam phải linh hoạt trong từng trường hợp, trong đó có KKTB. Đặc biệt, mô hình KKTB phải đổi mới và có tính thích ứng cao, nhanh chóng chuyển đổi số và quan tâm nhiều hơn đến các mục tiêu phát triển bền vững (SDGs) liên quan tới vùng ven biển và biển. Đại dịch Covid-19 tác động rất lớn đến chuỗi cung ứng, chuỗi sản xuất toàn cầu, hạn chế dòng vốn FDI, tác động đến sức khỏe và đời sống người lao động... Đương nhiên, các KKTB cũng phải gánh chịu hậu quả “không của riêng ai” này.

3. Triển vọng, cơ hội, thách thức đối với phát triển KKTB

Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam và thế giới nói trên, phát triển kinh tế biển nói chung và các KKTB nói riêng ở nước ta vừa có những cơ hội cơ bản, vừa phải đối mặt với những thách thức cả trong ngắn hạn và dài hạn. Tuy nhiên, phát triển các KKTB vẫn có triển vọng tốt, nếu chuyển dịch cơ cấu và đổi mới, sáng tạo nhanh hơn.

3.1. Cơ hội chủ yếu

Để phát triển bền vững kinh tế biển, ngày 22-10-2018, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030 tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết khẳng định: “Thống nhất tư tưởng, nhận thức về vị trí, vai trò và tầm quan trọng đặc biệt của biển đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[20].

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cũng đã xác định mục tiêu xây dựng đất nước theo lộ trình đến năm 2025, 2030 và 2045, theo đó Việt Nam sẽ phấn đấu đất nước vượt bẫy “trung bình thấp”, thu nhập bình quân đầu người tăng dần và kỳ vọng thành nước phát triển vào năm 2045.[21]  

Hiệp định CPTPP, EVFTA và các FTA khác được ký đã và sẽ tạo cơ hội mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu cho hàng hóa của Việt Nam, trở thành một “đòn bẩy” quan trọng và là một chiến lược dài hạn nhằm giúp doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, nâng cao năng lực sản xuất, xuất khẩu và cạnh tranh, khẳng định vị thế mới trên trường quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa khi mà những lợi thế cạnh tranh như giá nhân công rẻ, lợi thế tài nguyên hiện đã dần bị thu hẹp, không có tính bền vững trong khi những yếu tố như thương hiệu, chất lượng sản phẩm... là những điểm mà doanh nghiệp Việt còn tương đối hạn chế, sẽ lại là yếu tố quyết định lợi thế của các doanh nghiệp trong “cuộc chơi toàn cầu”[22].

Tham gia các FTA và cuộc chiến chống đại dịch Covid-19 đã tạo thêm “xung lực mới”, thúc đẩy Việt Nam quyết tâm đổi mới thể chế - chính sách, nhanh chóng tái cơ cấu các KKTB thích ứng và đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng phù hợp...

3.2. Thách thức cơ bản

Đại dịch Covid-19 có thể tồi tệ hơn nhiều so với hầu hết các thảm họa trước đây do phạm vi ảnh hưởng có tính toàn cầu của nó và do việc đưa vào áp dụng các biện pháp giãn cách và cách ly xã hội chưa từng có trong lịch sử sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các KKTB.

Việc chuyển đổi từ một quốc gia dư thừa lao động chuyên sử dụng lao động giá rẻ sang một nền kinh tế có công nghệ tiên tiến mang đầy rủi ro. Những tiến bộ trong tự động hóa có thể thu hẹp cánh cửa hiện có đối với Việt Nam để chuyển được từ hoạt động lắp ráp sang các phân đoạn phức tạp hơn của chuỗi giá trị. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu đã góp phần tạo việc làm, tăng trưởng xuất khẩu và xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam. Việt Nam hiện đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức trong việc tận dụng sự tham gia vào các mạng lưới này để nâng cao giá trị gia tăng trong nước và phát triển năng lực của các doanh nghiệp trong nước[23].

Sức ép cạnh tranh từ hàng nhập khẩu của EU cũng là khó khăn không nhỏ, đặc biệt đối với các doanh nghiệp yếu kém, có công nghệ sản xuất và kinh doanh lạc hậu. Thương hiệu sản phẩm Việt Nam tại thị trường EU còn kém cạnh tranh so với các nước xuất khẩu khác, trong khi thị trường EU rất chú trọng vấn đề này. Các cam kết sở hữu trí tuệ trong EVFTA và CPTPP cũng ở mức độ cao, toàn diện hơn, phạm vi điều chỉnh đa dạng hơn và bao trùm nhiều lĩnh vực hơn so với trước đây...

Một số khuyến nghị thay kết luận

Gia tăng chiều sâu trong sản xuất công nghiệp ở KKTB đòi hỏi phải tạo được động lực cho các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào công nghệ và kỹ năng mới. Trong khi các công cụ truyền thống của chính sách đổi mới quốc gia không còn nữa, Chính phủ phải tư duy sáng tạo về các công cụ thể chế và chính sách mới, đẳng cấp cao để có thể sử dụng nhằm thúc đẩy đầu tư trong nước và nâng cao vị thế trong phạm vi của các hiệp định Việt Nam đã ký.

Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải vượt qua các yêu cầu bắt buộc về rào cản kỹ thuật như an toàn thực phẩm, dán nhãn, môi trường... của Liên minh châu Âu (EU). Các quy định này rất chặt chẽ, yêu cầu cao, do vậy, hàng hóa của Việt Nam phải hoàn thiện nhiều về chất lượng để có thể vượt qua các rào cản này.

Cần có đánh giá đầy đủ mức độ tác động của dịch bệnh đến các lĩnh vực kinh tế trong các KKTB của nước ta, trên cơ sở đó đề xuất và thực thi các giải pháp đủ mạnh để vực dậy và phục hồi nhanh chóng nguồn lực cho các doanh nghiệp sau các đợt dịch bùng phát. Chuyển nhanh trạng thái để ứng phó với đại dịch Covid-19 tại những thời điểm quan trọng.

Thúc đẩy giáo dục và đào tạo sau trung học, do Việt Nam cần có một lực lượng lao động với năng lực tốt hơn nếu muốn vượt ra ngoài lĩnh vực lắp ráp và xây dựng được mạng lưới các nhà cung cấp, các nhà phân phối nội địa - đây là một điểm nghẽn then chốt, theo đánh giá của hầu hết các nhà đầu tư hoạt động tại Việt Nam[24].

Đổi mới và nâng đẳng cấp công nghệ thông qua nắm bắt công nghệ mới từ các nhà đổi mới sáng tạo toàn cầu vì nhiều doanh nghiệp trong nước hiện đang tụt hậu trong đổi mới sáng tạo và cải thiện chất lượng. Đây cũng là cách để bảo vệ môi trường, giảm phát thải, hướng tới phát triển bền vững.

Các hoạt động phát triển sạch, phát triển kinh tế số và nâng cao sức chống chịu của môi trường trong các KKTB để ứng phó với biến đổi khí hậu và cải thiện điều kiện sống (ô nhiễm), bảo vệ sức khỏe người lao động.


[1] Nghị quyết 09/2007/NQ-TW của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 4 (khoá X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.

[2] Bùi Tất Thắng (2014). Vấn đề xây dựng đặc khu kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa. Tham luận tại Hội thảo khoa học quốc tế về “Phát triển đặc khu kinh tế - kinh nghiệm và cơ hội” tổ chức tại TP Hạ Long (Quảng Ninh) ngày 19-23 tháng 3 năm 2014.

[3] Hoàng Ngọc Phong (Chủ biên) (2020). Cơ sở khoa học và giải pháp chính sách đột phá phát triển kinh tế biển bền vững các vùng kinh tế trọng điểm ở Việt Nam. Báo cáo tổng hợp kết quả đề tài cấp nhà nước KC.09.26/16-20.

[4] Bùi Tất Thắng (2014). Vấn đề xây dựng đặc khu kinh tế trong thời đại toàn cầu hóa. Sdd.

[5] Nguyễn Chu Hồi (2013). Kinh tế biển Việt Nam nhìn từ góc độ tài nguyên và môi trường. Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5-2013, trang 30-41, Hà Nội.

[6] Nghị định Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 quy định về khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.

[7] Trần Huy Đông (2011). Sức hấp dẫn vùng ven biển. Đặc san Báo Đầu tư “20 năm xây dựng khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế - hướng tới phát triển bền vững”, Hà Nội.

[8] Nghị quyết 09/2007/NQ-TW của Hội nghị Ban chấp hành TW Đảng lần thứ 4 (khoá X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.

[9] https://vi.wikipedia.org/wiki/Khu_kinh_t%E1%BA%BF_(Vi%E1%BB%87t_Nam)

[10] Quyết định số 1453/QĐ-TTg ngày 24/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển các khu kinh tế ven biển của Việt Nam đến năm 2020.

[11] Nguyễn Chu Hồi (2019). Chiến lược bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.

[12] Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

[13] Nguyễn Mạnh Hùng (2021). Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện tử. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/821539/ve-hoi-nhap-quoc-te-va-tham-gia-tien-trinh-toan-cau-hoa-cua-viet-nam.aspx

[14] Nguyễn Mạnh Hùng (2021). Về hội nhập quốc tế và tham gia tiến trình toàn cầu hóa của Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện tử. Sdd.

[15] Nguyễn Phú Trọng (2021). Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/bao-cao-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xii-ve-cac-van-kien-trinh-dai-hoi-xiii-cua-dang)

[16] Hà Thị Thu Thanh (2020). Giải pháp và hành động để doanh nghiệp Việt Nam vượt khó khăn, thách thức, chủ động giành cơ hội, phục hồi kiên cường và bền vững. Kỷ yếu Diễn đàn thường niên về cải cách và phát triển Việt Nam lần thứ 3 năm 2020 (VRDF-2020), trang 61.

[17] Nguyễn Sơn (2021). Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện tử. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/kinh-te/-/2018/821753/hiep-dinh-thuong-mai-tu-do-the-he-moi-thuc-day-muc-tieu-phat-trien-ben-vung-cua-viet-nam.aspx

[18] Nguyễn Sơn (2021). Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới thúc đẩy mục tiêu phát triển bền vững của Việt Nam. Tạp chí Cộng sản điện tử. Sđd.

[19] Ngân hàng Thế giới (2020). Việt Nam: Hành động để phục hồi tăng trưởng nhanh theo hướng bền vững và bao trùm trong bối cảnh đại dịch Covid-19. Kỷ yếu Diễn đàn thường niên về cải cách và phát triển Việt Nam lần thứ 3 năm 2020 (VRDF-2020), trang 10.

[20] Đảng Cộng sản Việt Nam (2018). Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 72-73.

[21] Hội đồng lý luận TW (2021). Những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr 31-34.

[22] Hà Thị Thu Thanh (2020). Giải pháp và hành động để doanh nghiệp Việt Nam vượt khó khăn, thách thức, chủ động giành cơ hội, phục hồi kiên cường và bền vững. Kỷ yếu Diễn đàn thường niên về cải cách và phát triển Việt Nam lần thứ 3 năm 2020 (VRDF-2020), tr 65-66.

[23] Jonathan Pincus (2020). Nắm bắt cơ hội từ những dịch chuyển trong các chuỗi giá trị: Tăng trưởng toàn diện, thu hút dòng vốn FDI có chất lượng vào Việt Nam và phát triển khu vực tư nhân của Việt Nam. Kỷ yếu Diễn đàn thường niên về cải cách và phát triển Việt Nam lần thứ 3 năm 2020 (VRDF-2020), tr 50.

[24] Jacques Morriset (2020). Chuỗi giá trị toàn cầu: Đừng nhầm lẫn - COVID-19 là một cơ hội cho Việt Nam.  Kỷ yếu Diễn đàn thường niên về cải cách và phát triển Việt Nam lần thứ 3 năm 2020 (VRDF-2020), tr 30.

 

(Nguồn:Tạp chí quy hoạch xây dựng (số 111))
Tin cũ hơn

Tạp chí QHXD

Ebook

Giới thiệu sách

Liên kết website