TS. Trần Minh Tùng
Trưởng Bộ môn Kiến trúc dân dụng, Khoa Kiến trúc & Quy hoạch, Trường Đại học Xây dựng - 0933.264.426 - tungtm@nuce.edu.vn
Tóm tắt
Do tập trung một lượng lớn dân cư và tài sản vật chất, các thành phố luôn là nơi đón nhận đầu tiên và nặng nề các tác động của các thảm họa và khủng hoảng, nhưng cũng lại là nơi có khả năng phục hồi tốt hơn sau thảm họa và khủng hoảng do tập hợp nhiều hơn các nguồn lực và kỹ năng để huy động nhằm khắc phục hậu quả. Thành phố khả phục hồi là thành phố có khả năng lấy lại, duy trì hoặc phục hồi chức năng trong trường hợp bị gián đoạn hoặc xáo trộn do các thảm họa và khủng hoảng ngày càng bất ngờ và có quy mô toàn cầu. Do đó, như một cơ thể sống, thành phố khả phục hồi cũng cần có các phẩm chất cần thiết để tạo ra cho mình một sức đề kháng nhất định. Đại dịch Covid-19 đã cho thấy khả năng phản ứng kịp thời của các đô thị Việt Nam. Đó cũng là một dấu hiệu rõ ràng nhất để chúng ta bắt buộc phải thay đổi tư duy “làm đô thị” với một số yếu tố cần được xem xét dưới góc độ quy hoạch, xây dựng và phát triển các đô thị Việt Nam từ đây về sau, nhằm giúp các thành phố trở nên nhân văn hơn, con người hơn để phục hồi mạnh mẽ hơn, và thích ứng hơn cho một tương lai đầy biến động.
Abtract
Due to their high concentration of population and physical assets, cities are always first and heavily affected by the impacts of disasters and crises but also have the potential to recover faster due to a greater pool of resources and skills to mobilize to overcome consequences. A resilient city is one that can recover and maintain its functions in the event of disruption or disturbance caused by increasingly unexpected and global-scale disasters and crises. Therefore, as a living organism, a resilient city also needs the essential qualities to create self-resistance. The Covid-19 pandemic showed the ability to respond promptly in Vietnamese cities. It is also the clearest sign that we must change our mindset of "making-city" with many factors that need to be considered from the perspective of planning, making and developing Vietnamese cities from now on, in order to help cities become more humane to recover stronger, and more adaptable to a turbulent future.
Từ khóa
Thành phố khả phục hồi, (Hậu) thảm họa, (Hậu) khủng hoảng, (Hậu) Covid-19
Keywwords
Resilient city, (Post-)Disaster, (Post-)Crisis, (Post-)Covid-19
Đô thị - những tủ kính trưng bày hào nhoáng nhưng dễ đổ vỡ
Với sự phát triển của nhân loại, các đô thị trở thành những “tủ kính” trưng bày tất cả những gì được gọi là thành quả của con người sau hàng triệu năm tiến hóa, tách rời và chế ngự các môi trường tự nhiên hoang dã để làm chủ và kiến tạo những môi trường sống mới mang đậm dấu ấn “con người”. Những tủ kính này hấp dẫn bởi sự tập trung của những kiến trúc cao tầng, những con đường tấp nập giao thông, những ánh đèn hào nhoáng, mang đến cho con người cảm giác choáng ngợp về những gì mà chính con người có thể tạo ra. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, các đô thị cũng là những tủ kính theo đúng nghĩa đen khi ngày càng trở nên dễ bị tổn thương, dễ bị thiệt hại hay gián đoạn, mà diễn tả một cách nôm na hơn là dễ đổ vỡ, trước những tác động của các hiểm họa từ tự nhiên hay do con người.
Nếu xác định thảm họa hay khủng hoảng đô thị là một sự gián đoạn nghiêm trọng sự vận hành chức năng của một xã hội đô thị, gây ra những mất mát lớn về người, vật chất và môi trường, vượt quá khả năng chống chịu bằng nội lực của cộng đồng bị tác động, thì các thành phố luôn là những nơi đón nhận đầu tiên và nặng nề các tác động do tập trung một lượng lớn dân cư và tài sản vật chất. Mặt khác, đô thị còn là những động lực tăng trưởng kinh tế nên thể hiện rõ ràng nhất các hậu quả suy thoái sau mỗi thảm họa và khủng hoảng. Nhưng ngược lại, đô thị cũng lại là nơi có khả năng phục hồi tốt hơn sau thảm họa do tập hợp nhiều hơn các nguồn lực và kỹ năng mà người dân sở hữu, có thể phát triển, huy động hoặc có thể tiếp cận nhằm cho phép họ có nhiều khả năng kiểm soát tương lai cho mình hơn. Khả năng phục hồi này có thể là các tài sản vật chất như việc sở hữu đất đai hoặc tiền bạc; là các kỹ năng, trình độ dân trí; cũng có thể là từ xã hội, như các tổ chức cộng đồng hoặc các hệ thống phúc lợi đô thị. Chúng cũng có thể của cá nhân mỗi người dân đô thị, như mong muốn được sống sót, hoặc niềm tin vào một ý thức hệ hay tôn giáo.
Đô thị của thế kỷ XXI - đô thị của những thảm họa và khủng hoảng bất ngờ
Khi thế kỷ XXI mở ra, các quốc gia cũng thể hiện rõ mong muồn phần lớn dân số sẽ sống ở các thành phố. Mọi người bị thu hút đến các thành phố như là trung tâm của hoạt động kinh tế, cơ hội và đổi mới. Nhưng các đô thị cũng là nơi tích tụ căng thẳng hoặc những cú sốc bất ngờ có thể dẫn đến suy sụp xã hội, suy giảm vật chất hoặc suy thoái kinh tế. Các thành phố ngày càng phải đối mặt nhiều hơn với những rủi ro so với quá khứ, kể cả những thành phố tự hào đã từng tồn tại hàng thế kỷ và đã chứng tỏ khả năng phục hồi khi đối mặt với việc thiếu hụt tài nguyên, các hiểm họa thiên nhiên và xung đột trong lịch sử.
Những áp lực toàn cầu mới - chẳng hạn như biến đổi khí hậu, môi trường, dịch bệnh, suy thoái kinh tế và khủng bố,... - đặt ra những thách thức mới. Quy mô rủi ro đô thị ngày càng tăng do số lượng người sống ở các thành phố ngày càng cao. Hơn nữa, những rủi ro này cũng khó lường hơn do sự phức tạp của các hệ thống (trong) đô thị và sự xuất hiện đồng thời của nhiều nguy cơ tạo nên những biến thể hay các thảm họa kép. Chẳng hạn như bên cạnh các vấn đề về biến đổi khí hậu diễn ra khốc liệt hơn, ô nhiễm môi trường có dấu hiệu trầm trọng hơn hay nguy cơ khủng bố hiển hiện rõ ràng hơn, những năm cuối thập niên thứ hai, đầu thập niên thứ ba của thế kỷ XXI đã chứng kiến một đại dịch lớn khiến các thành phố chững lại sau một thời gian dài mải miết cạnh tranh thúc đẩy các hoạt động tăng trưởng. Đại dịch Covid-19 đã mang đến những bất ngờ mà con người phải thốt lên “như trong phim”. Những đường phố vắng lặng vì giãn cách xã hội thay cho khung cảnh đông đúc nhộn nhịp người dân đi lại, vui chơi hay hoạt động. Những cơ sở thương mại, dịch vụ buộc phải đóng cửa, thậm chí phá sản, thay cho các hoạt động mua bán tấp nập. Những thành phố bị cách ly, biệt lập với thế giới, dù chỉ là tạm thời một vài tuần, thay cho việc hòa nhập vào mạng lưới các dòng chảy di chuyển mạnh mẽ của hàng hóa, của thông tin, của con người. Và ngược lại, các nghĩa trang trở nên “bận rộn” hơn thay cho vẻ tĩnh lặng thường thấy. Những cảnh tượng “ngược đời” đó đã khiến con người phải suy nghĩ lại về bản chất của các đô thị, cũng như cách đô thị đối phó, thích ứng và phục hồi thế nào trước và sau mỗi thảm họa, mỗi khủng hoảng khó lường.
Thành phố khả phục hồi hay khả năng phục hồi của thành phố
Khả năng phục hồi của thành phố mô tả khả năng hoạt động, vận hành của các thành phố, để những người sống và làm việc ở các thành phố - đặc biệt là những người nghèo và dễ bị tổn thương - tồn tại và phát triển bất kể họ gặp phải những căng thẳng hay cú sốc nào, nhất là do các thảm họa và khủng hoảng gây ra. Khả năng phục hồi là một thuật ngữ xuất hiện trong lĩnh vực sinh thái học vào những năm 1970, để mô tả khả năng của một hệ thống (sinh thái) có thể duy trì hoặc phục hồi chức năng trong trường hợp bị gián đoạn hoặc xáo trộn vì một lý do nào đó. Thuật ngữ này có thể áp dụng cho các thành phố vì xét về bản chất, các đô thị cũng là những hệ thống phức hợp liên tục thích ứng với những hoàn cảnh thay đổi. Khái niệm về một thành phố khả phục hồi càng trở nên cần thiết khi gần đây, thế giới loài người đã có những căng thẳng mãn tính hoặc những cú sốc đột ngột đe dọa sự gián đoạn trên diện rộng hoặc sự sụp đổ các hệ thống vật chất và xã hội đô thị. Hiện nay, thành phố khả phục hồi phải chấp nhận khả năng một loạt các sự kiện gây gián đoạn và xáo động đô thị có thể xảy ra đồng thời và bất ngờ, không dự đoán trước được (như đại dịch Covid-19 mà cả thế giới đang đối mặt). Chính vì vậy, khả năng phục hồi của một thành phố tập trung vào việc nâng cao hiệu suất vận hành của hệ thống đô thị khi đối mặt với nhiều mối nguy hiểm hơn là ngăn ngừa hoặc giảm thiểu tổn thất tài sản do các sự kiện cụ thể.
Theo các nghiên cứu gần đây, như một cơ thể sống, một thành phố khả phục hồi, cũng giống con người, để có thể vượt qua các thảm họa hay khủng hoảng, cần có các phẩm chất cần thiết tạo ra một sức đề kháng nhất định.
Nhìn về tương lai các đô thị Việt Nam hậu Covid
Covid-19 không phải là thảm họa hay khủng hoảng duy nhất mà các thành phố Việt Nam hiện đang phải hứng chịu, mà đó là một dấu hiệu rõ ràng nhất để chúng ta bắt buộc phải thay đổi tư duy “làm đô thị” nhằm thích ứng cho một tương lai đầy biến động. Đấy cũng được xem như liều thuốc thử để thấy được khả năng phục hồi của các đô thị sau đại dịch.
Mặc dù Covid-19 vẫn chưa kết thúc, nhưng bài học được rút ra trong thời gian đối phó vừa qua đã cho thấy một số yếu tố cần được xem xét dưới góc độ quy hoạch, xây dựng và phát triển các đô thị Việt Nam từ đây về sau như:
Sau cơn mưa trời lại sáng...
Nhìn lại trong lịch sử, nhân loại không hiếm những lần đối mặt với các thảm họa và khủng hoảng, đe dọa và tàn phá sức sống các đô thị. Tuy nhiên, một cách lạc quan, các thảm họa hay khủng hoảng này không chỉ mang đến những hệ quả tiêu cực mà còn khiến con người có động lực hơn trong việc đẩy nhanh những tiến bộ y khoa, dịch vụ xã hội, nâng cao ý thức vệ sinh cá nhân và chăm sóc sức khỏe toàn dân, cũng như kích thích sự phát triển của hệ thống phúc lợi xã hội chuyên nghiệp. Dù gây thiệt hại nặng nề trên mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội, nhưng không thể phủ nhận rằng đại dịch Covid-19 cũng mang đến nhiều bài học quý báu và mở ra những cơ hội mới cho nhân loại.
Như vậy, trong tương lai, các thành phố sẽ không thể tránh khỏi những thảm họa hay những khủng hoảng, thậm chí mang quy mô toàn cầu. Bên cạnh việc chủ động dự báo và phòng tránh các thảm họa, các thành phố cần chủ động phục hồi sau các thảm họa đó thông qua việc tăng cường sinh kế và cải thiện các điều kiện, môi trường sống của người dân liên quan đến tạo nguồn thu nhập. Các điều kiện sống cơ bản về sức khỏe (gồm cả sức khỏe tinh thần) và dinh dưỡng, rất quan trọng đối với khả năng hồi phục, đặc biệt trong trường hợp thảm họa làm giảm nguồn lương thực và tăng nguy cơ về sức khỏe. Ngoài ra sự tự bảo vệ liên quan đến nơi trú ẩn, nơi an cư trước các hiểm họa là cần thiết bên cạnh sự bảo vệ của xã hội nói chung do các tổ chức địa phương (như các nhóm tự giúp, chính quyền địa phương, các tổ chức phi chính phủ...) cung cấp. Gắn không gian đô thị với các tổ chức xã hội hay chính quyền là cần thiết để có thể xác định, phân bổ các nguồn lực, nguồn thu nhập và sự có mặt và hoạt động của các tổ chức dân sự trong việc kiến tạo hệ thống không gian chăm sóc y tế, nâng cao sức khỏe, cũng như thương mại, dịch vụ.
Đại dịch Covid-19 đã cho thấy khả năng phản ứng kịp thời của các đô thị Việt Nam. Tuy nhiên, sau cơn “bạo bệnh” này, liệu các thành phố có phục hồi lại được “như xưa” (nếu không muốn nói là “hơn xưa”) khi mà thực tế cho thấy nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh, thương mại hay dịch vụ đã bị “tàn phá”. Các thảm họa và khủng hoảng đã phơi bày những tác động lớn của con người lên trái đất để sau các cú sốc đó, có thể tạo ra những thay đổi nhận thức của chính con người về sự cần thiết điều chỉnh hành vi của mình trong thời gian ngắn nhằm cải thiện môi trường môi trường tự nhiên lẫn môi trường đô thị. Ứng phó đại dịch còn làm giàu thêm các ý tưởng kiến tạo đô thị giúp các thành phố trở nên nhân văn hơn, con người hơn để phục hồi mạnh mẽ hơn.
Tài liệu tham khảo
Michael Digregorio, Nguyễn Trí Thanh, Lê Quang Trung (2018). Chỉ số chống chịu của các đô thi Việt Nam - Báo cáo chứng minh khái niệm. Hà Nội: The Asia Foundation & The Rockefeller Foundation
The Rockefeller Foundation, Arup (2015). City Resilience Framework. https://www.rockefellerfoundation.org/wp-content/uploads/City-Resilience-Framework-2015.pdf
Hội Chữ thập đỏ Việt Nam (2010), Đánh giá tình trạng dễ bị tổn thương và khả năng (VCA) - Sổ tay dành cho Hướng dẫn viên đánh giá VCA Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, Tập 1. https://www.rcrc-resilience-southeastasia.org/wp-content/uploads/2016/01/Danh-Gia-Tinh-Trang-De-Bi-Ton-Thuong-Va-Kha-Nang-VCA-tap-1.pdf